Kỳ thi bây giờ cũng giống như bóng đá của Trung Quốc. Nhiều khi người trong cuộc còn chẳng lo lắng gì, nhưng những người khác đã lo lắng và sốt ruột cho họ rồi. Những người đáng lẽ phải cố gắng thì lại không, còn những người không đáng phải cố gắng thì lại đang làm việc quần quật đến kiệt sức.
Bản thân Lâm Vũ Tường vẫn không cảm thấy vội vã, ít nhất là về mặt chủ quan thì không. Trái lại, cha mẹ cậu thì lo lắng đến mức quay cuồng, vội vã nhờ vả khắp nơi, tìm người quen để “chạy” quan hệ. Nhưng đến lúc cần thì mới thấy bạn bè thật ít, mà ngay cả khi nhờ vả cũng không thể thẳng thừng như một hiệp sĩ tỏ tình; phải nói vòng vo, tán nhảm hồi lâu, rồi để chủ đề chính lộ ra một cách vô tình, tốt nhất là giống như chiếc bánh bao sắp chín, lấp ló nổi lên mặt nước rồi lại chìm xuống. Luyện tập nghệ thuật trò chuyện kiểu này thật mệt mỏi. Cuối cùng, quận đã nhượng bộ, nói rằng Lâm Vũ Tường là người có tố chất tốt, học lực khá, có thể được xem xét ưu tiên hạ điểm xét tuyển. Tất nhiên, kết quả cuối cùng vẫn phải dựa vào thành tích thi cử, mà kỳ thi thì còn xa đến mức nhìn chẳng thấy đâu.
Mẹ của Lâm đành hy sinh “tình yêu lớn” là bỏ qua một đêm đánh mạt chược, để ngồi trò chuyện tâm tình với Vũ Tường, vì bà đã đọc trên báo rằng trẻ em cần được “ấm áp tình mẫu tử” trước kỳ thi. Cha của Lâm thì không biết thể hiện điều đó, nên gánh nặng ấy đành đặt hết lên vai mẹ.
Hôm đó, như thường lệ sau giờ tan học, Lâm Vũ Tường ra cây cầu lớn đi dạo cho khuây khoả. Trời cao, gió nhẹ, mây trôi lững lờ trên dòng sông rộng. Trên lan can xi măng kéo dài từ đầu đông sang đầu tây của cây cầu, chi chít những dòng chữ khắc tinh xảo. Mỗi ngày, Vũ Tường lại ngắm một đoạn, và lòng cậu trở nên thư thái, nhẹ nhõm.
Đoạn văn hôm nay là một sự thể hiện trực tiếp của cảm xúc: “Anh yêu em /? Anh yêu em /? Yêu em đến tận… hậu môn /? Ở đó toàn là không khí trong lành /? Ở đó — hết cảm hứng rồi! Sẽ viết tiếp sau /? Sẽ viết tiếp sau.” Lại có những câu đau thấu tâm can: “Mười năm sau, nơi này, gặp lại.” Khiến người ta phải nghi ngờ rằng kẻ khắc dòng chữ ấy có lẽ đã nhảy xuống sông sau khi khắc xong. Cuối cầu có khắc ba chữ như để tôn vinh cho cây cầu: “Cầu Tình Nhân”. Có người thấy cái tên quá lộ liễu, nên lại khắc thêm bên cạnh “Cầu Hoàng Hôn”. Vũ Tường thích cái tên “Cầu Hoàng Hôn” hơn, vì nó mang nét hàm súc của thơ xưa. Trên cầu, cậu chỉ ở lại nhiều nhất là nửa tiếng để ngắm nhìn những nhà máy cũ kỹ hai bên bờ, những nông xá bình yên, và dòng nước trôi thờ ơ dưới chân cầu. Tiếng còi tàu vọng trong không gian, tất cả như say trong ánh tà dương đỏ rực cuối ngày.
Vừa về đến nhà là chẳng được yên thân. Mẹ của Lâm có rất nhiều sở thích, ngoài đánh mạt chược ra, bà còn đặc biệt giỏi việc “thám tử tư”: lục túi, khám tủ, việc gì cũng tinh thông. Cậu con trai sợ đến mức phải bỏ hầu hết đồ đạc vào trong cặp và để lại ở lớp học, may mà sách là thứ ít có khả năng bị mất cắp nhất. Chiếc cặp trở nên xẹp lép đến đáng sợ.
Mẹ Lâm giận dữ nói: “Sao có vài cuốn sách thế này!” nhưng chợt nghĩ đến báo chí nói là ôn hòa là nhất, liền hạ giọng dịu đi ba phần: “Sắp thi rồi đấy, con à, không sốt sắng chút nào sao.”
“Không vội, còn một học kỳ nữa mà!”
“Này! Không đúng! Người xưa có câu ‘một tấc thời gian bằng một tấc vàng’, ý là một chút thời gian cũng đáng giá cả đống tiền!” May mà bà chưa từng thấy những câu danh ngôn kiểu như “quạ bay thỏ chạy” của La Thiên Thành, nếu không thì chắc còn giảng giải nửa buổi.
“Mẹ đặc biệt muốn nói chuyện tâm sự với con, giúp con giảm bớt áp lực!” Câu nói này của mẹ Lâm thật thâm thúy. Thứ nhất, là “đặc biệt”, dường như việc đánh mạt chược đã trở thành nghề nghiệp, còn việc quan tâm đến con trai thì giống như quyên góp cứu trợ thiên tai, một sự cống hiến thêm hoặc miễn cưỡng mà làm. Thứ hai, sau khi “tâm sự”, chỉ có áp lực là được giải toả, chứ không phải sức khỏe thể chất hay tinh thần của Lâm Vũ Tường. Lúc đó Lâm Vũ Tường chưa hiểu hết ý nghĩa, nhưng thông điệp ngầm này có tác động mạnh mẽ, gần như tức thời. Sau một lúc, Lâm Vũ Tường mới hiểu được một phần và nói với vẻ bất mãn: “Ngay cả nói chuyện với con mà mẹ cũng phải ‘đặc biệt’ mới làm sao?”
“Thôi được rồi, mẹ cãi không lại con. Mẹ mua cho con ít thuốc rồi.”
“Thuốc ạ?”
“Nghe này, thuốc này phải uống cho đàng hoàng, nó giúp tăng trí thông minh và trí nhớ đấy, đắt tiền lắm nhé! Mẹ phải đánh thắng mấy ván mạt chược mới gỡ lại được tiền!” Vừa nói bà vừa lấy ra một chai lớn đựng những viên thuốc màu xanh và nói: “Nhìn này, là của Mỹ, hãng Hui..Hui…”
“Pfizer!” Lâm Vũ Tường đáp. Hãng đó tình cờ tìm ra Viagra (ND: là một loại thuốc điều trị rối loạn cương dương), lập tức nổi tiếng khắp thế giới. Là đàn ông, không biết nguồn gốc của Viagra là một tội lỗi.
“Chữ đó đọc là…”, mẹ Lâm ngập ngừng nói.
“‘Này, đưa đây con xem thử!” Lâm Vũ Tường khinh bỉ học vấn bị bỏ bê của mẹ mình, khinh khỉnh cầm lấy xem liền giật nảy người, rõ ràng là “Công ty thuốc Huy Thuỵ”, cậu tưởng Pfizer (ND: Pfizer có phiên âm trong tiếng Trung là Huy Thuỵ) sản xuất nhầm thuốc nên bị đưa vào danh sách đen phải đổi tên, nhìn kỹ lại mới la lên: “Thuốc giả”!
“Nói vớ vẩn! Mẹ nhờ bạn mua hộ, sao có thể là thuốc giả được? Chắc con đầu óc quay cuồng rồi!”
“Mẹ ơi, mẹ xem này, không có mã vạch, này, màu thì phai mất, này, còn cái này nữa…” Vũ Tường liệt kê từng thứ như khoe bảo vật. Trải qua vô số lần mua phải hàng giả, cuối cùng cậu đã trở thành bậc thầy trong việc nhận biết và đấu tranh với hàng giả.
“Không phải, chỉ là nó để ngoài quá lâu thôi! Con xem này, bên trong có tờ hướng dẫn và thư cảm ơn kìa, nhìn thư cảm ơn này…” Mẹ Lâm rút ra một tờ phiếu phản hồi, trên đó ghi:
“Ông Phan, tỉnh Quảng Đông
Gửi các đồng chí của Công ty thuốc Huy Thuỵ, mọi người vất vả rồi! Tôi là một người trí nhớ kém, thường xem xong là quên, ghi nhớ xong cũng quên, tật này khiến bạn bè dần xa lánh tôi, tôi vô cùng đau khổ, vì thế gần như mất hết bạn bè.
Bỗng nhiên, tin vui đến từ thiên đường! Tôi biết đến “Kho báu Trí nhớ Biển Sâu” từ một người bạn, một sản phẩm giàu DHA từ sinh vật biển. Tôi đã mua hai hộp sản phẩm của công ty bạn để dùng thử. Sau khoảng một liệu trình, nó thực sự hiệu quả. Bây giờ tôi nhớ được mọi thứ, trí nhớ cải thiện đáng kể so với trước. Những bài viết thông thường đọc hai lần là có thể thuộc lòng.
Cảm ơn quý công ty đã cung cấp cho tôi loại thuốc tuyệt vời như vậy, khiến tôi lại cảm nhận được sự ấm áp. Tôi xin nhân cơ hội này bày tỏ lòng biết ơn. Mong rằng sẽ có nhiều người có được trí nhớ tốt hơn nhờ thuốc của quý công ty.”
Ngày nay, thật hiếm khi tìm thấy những bài viết sâu sắc như vậy. Mặc dù có nhiều lỗi, nhưng hai mẹ con vẫn hoàn toàn không nhận ra, lại còn nửa tin nửa ngờ.
Mẹ Lâm đổ thuốc cho con. Ở bên người lâu ngày, thuốc đã bắt chước thói quen của họ, trở nên trơn tru tròn trịa đến khó tin. Việc định liều trở nên khó khăn. Mẹ Lâm hơi nghiêng lọ thuốc, tay run run, nhưng dù viên thuốc trơn nhẵn, bên trong chúng lại rất đoàn kết, cứng đầu không chịu chui ra.
Mẹ Lâm run run mỏi tay đến nổi giận, liền nghiêng lọ thuốc mạnh hơn, nhưng với lực quá mạnh, một chuỗi viên thuốc lao xuống vun vút, mẹ Lâm không kịp sửa sai, khi định chỉnh lại thì thuốc đã văng tứ tung trên bàn. Mẹ Lâm vừa tức vừa đau lòng, chồm lên bàn bao vây các viên thuốc. Theo Binh pháp Tôn Tử, trong chương “Mưu công sách” (Mưu kế tấn công) nói rằng để bao vây kẻ thù, cần phải có binh lực gấp mười lần, nhưng mẹ Lâm lại làm ngược lại, dùng một bao vây mười, qua đó lật ngược lý thuyết này. Theo Binh pháp Tôn Tử, trong chương “Hỏa công” (Tấn công bằng lửa) còn nói tướng lĩnh không được vì tức giận mà ra trận, cũng bị mẹ Lâm phá vỡ. Thế là, mẹ Lâm đã hoàn toàn bác bỏ tác phẩm lý thuyế quân sự đầu tiên và có ảnh hưởng nhất còn tồn tại ở Trung Quốc này.
Mẹ Lâm cẩn thận nhặt những viên thuốc và bỏ vào lọ, chừa lại hai viên cho Vũ Tường uống.
Viên thuốc nhỏ trông có vẻ nặng, nhưng khi tiếp xúc với nước, nó phồng lên dữ dội và nổi lên trên. Lâm Vũ Tường không lường trước được tình huống đột ngột này, bị sặc, viên thuốc mắc kẹt trong cổ họng, không thể nuốt được. Cậu nuốt thêm vài ngụm nước nữa, nhưng nó vẫn kẹt, khiến ngực cậu thắt lại và khó chịu.
Trước khi chiến đấu với bệnh tật, Lâm Vũ Tường phải chiến đấu với thuốc men. Không thể đấu trí, cậu chỉ còn cách đấu bằng dũng khí, Vũ Tường uống nước một cách dũng mãnh, cuối cùng mới có được cảm giác chính hiệu rằng “một hòn đá trong lòng vừa rơi xuống”. Lòng Vũ Tường tràn ngập sự nhẹ nhõm, cậu nguyền rủa thuốc kém chất lượng. Mẹ cậu bảo cậu nuốt viên thuốc còn lại, nhưng cậu quá sợ. Mẹ Lâm làm một cử chỉ như muốn dọa con trai, Lâm Vũ Tường cho rằng bà đã nổi nóng rồi thì không thể nổi nóng lại nữa. Nhưng cậu không hiểu rằng tính khí của phụ nữ mãn kinh cũng nóng nảy như sự không chung thủy của đàn ông mãn kinh. Mẹ cậu bắt đầu la mắng: “Mẹ mua cho con mà con vẫn không chịu uống! Con làm mẹ giận rồi! Con làm mẹ phát điên lên được!”
Lâm Vũ Tường đành phải liều mạng uống thêm một viên thuốc nữa. May mắn thay, viên thuốc trước đã mở đường, làm giãn thực quản, khiến viên thuốc thứ hai loạng choạng rơi vào dạ dày.
Lúc này, cha Lâm cuối cùng cũng về đến nhà, vẻ mặt trông vô cùng kiệt sức. Sự kiệt sức này là do đặc thù công việc của một biên tập viên, thực ra là “xào nấu chữ nghĩa”. Ông có một núi bản thảo trên tay, phần lớn trong số đó hoàn toàn vô nghĩa. Nhưng khi gặp phải những bài vô nghĩa mà lại có vẻ trôi chảy thì thường chẳng biết bắt đầu từ đâu, phải tỉ mỉ phân loại và sắp xếp lại các đoạn văn. Tờ báo này với lượng phát hành ít ỏi, lại chẳng có ai đọc, nó chỉ được cấp trên đặt mua. Các quan chức chỉ đọc nó khi đi vệ sinh, nhờ đó tiết kiệm được rất nhiều giấy vệ sinh, nhưng như vậy cũng tốt, một tờ báo tồi để lau mông chó, lại là một sự kết hợp hoàn hảo.
Những ngày này tâm trạng của cha Lâm không tốt còn có lý do khác, tờ báo lá cải đầy lỗi chính tả do thiếu nhân lực và khối lượng công việc quá tải. Dù các biên tập viên đều là những người yêu chữ nghĩa, nhưng chỉ có bốn người mà phải biên tập một tờ báo với số lượng phát hành bốn nghìn bản thì chẳng khác nào bắt bốn con khỉ ăn hết bốn tấn đào cùng một lúc. Cha Lâm từng phản ánh việc này với lãnh đạo, người lãnh đạo ấy miệng đầy hứa hẹn rằng sẽ chọn vài “lực lượng trẻ” từ trường đại học. Thế nhưng mấy “lực lượng trẻ” đó chẳng khác nào viện binh Quan Đông, cha Lâm chờ đến hoa tàn vẫn chẳng thấy bóng dáng ai, đành cắn răng đi thúc giục thêm lần nữa. Lãnh đạo vỗ trán đứng bật dậy, liên tục nói: “Anh xem tôi này… anh xem tôi này…”, cha Lâm quả nhiên thấy ông ta lấy bút gõ vào đầu mình. Người có học thức đều như thế cả. Người xưa có câu “bậc trí giả giết người bằng ngòi bút”, chính là nói về đạo lý này. Là người có lòng mềm yếu, cha Lâm thấy vị lãnh đạo đường đường chính chính lại đang tự hành hạ bản thân, bèn vội nói rằng mình hiểu cho lãnh đạo. Lãnh đạo được “thấu hiểu”, liền bảo đảm rằng trong thời gian ngắn sẽ bổ sung nhân sự. Nhưng vị lãnh đạo này vốn làm về ngành lịch sử. Mà trong giới sử học, những lời hứa liên quan đến “thời gian” là điều không đáng tin nhất. Nói là “thời gian ngắn”, nhưng tám chín trăm năm, theo cách nói của họ, cũng chỉ là “một khoảnh khắc của lịch sử”. Từ đó mà suy ra, hậu quả thế nào cũng có thể đoán được.
Viện binh mãi vẫn chưa thấy đâu, cha Lâm bắt đầu sốt ruột. Hôm nay khi nói chuyện với lãnh đạo, ông có đôi câu phản ứng lại, thế là lãnh đạo liền mở màn “giáo dục”, giọng điệu cứ như mình đã sống mấy trăm tuổi: “Người trẻ như cậu ấy mà, tham vọng thì cao mà tay nghề lại thấp. Nhân sự thiếu đúng là bất lợi, nhưng theo phép biện chứng của chủ nghĩa duy vật, điều đó ngược lại chính là cơ hội để các cậu thể hiện tài năng. Người trẻ không thể vì mình có chút học vấn, viết được vài bài vặt mà đã tự phụ, khắp nơi oán trách, tùy tiện góp ý. Trong lịch sử, những ví dụ thất bại như thế này chẳng phải còn chưa đủ nhiều sao? Cậu à…”, giọng điệu hệt như cha đang dạy dỗ con trai vậy.
Cha Lâm uất ức, về nhà liền mắng con trai không chịu học hành. Cha trút giận, con nản lòng, Lâm Vũ Tường nói: “Dù sao thì con cũng không chăm chỉ, con không học nữa!”. Cha Lâm liền hoảng hốt vội vàng chữa lại, nói rằng vừa rồi mình lỡ lời, hơi nặng giọng quá.
Bữa tối diễn ra trong bầu không khí ảm đạm, cả nhà chẳng ai nói câu nào, mỗi người đều chăm chú “trêu đùa” thức ăn trong bát của mình.
Tám giờ tối, mẹ Lâm xông thẳng vào phòng của Vũ Tường. Cậu đang đọc truyện tranh, chưa kịp giấu thì đã bị mẹ bắt quả tang. Cậu tức giận nói: “Sao mẹ lại vô ý tứ thế, vào phòng thì phải gõ cửa trước chứ.”
“Nếu mẹ gõ cửa thì làm sao biết được con đang trốn trong này làm gì chứ?”, mẹ Lâm đắc ý nói.
“Trả sách lại cho con, đó là sách con mượn.”
“Đợi hết kỳ thi rồi tính sau! Còn cuốn sách…” Mẹ Lâm định nói “cuốn sách đợi sau kỳ thi mới trả cũng không ảnh hưởng gì đến người đó đâu. Nhưng bản năng làm mẹ vốn cũng ích kỷ, bà chợt nghĩ nếu học sinh đó thi tốt, Vũ Tường sẽ phải rơi xuống một bậc. Muốn cho học sinh ấy say mê sách vô bổ, bà liền nói: “Trả sách lại cho người ta, từ nay về sau, con không được phép mượn đồ của người khác một cách bừa bãi, và cũng không được phép đọc sách vô bổ.”
Lâm Vũ Tường có dẫn chứng phong phú, liền mượn lời người khác nói: “Mẹ ơi, theo lời mẹ nói, cái gọi là sách chính quy thì sau tháng Bảy là vô dụng, còn cái gọi là sách vô bổ thì cả đời đều có ích.”
“Cái gì! Bây giờ con chỉ được đọc sách chính quy, làm bài tập chính quy cho mẹ!” Mẹ Lâm lại ra oai lần nữa.
“Vâng, được rồi, được rồi, sách chính quy, ha…”
“Điểm số tệ hại của con là vì hồi nhỏ đọc quá nhiều sách lung tung! Đầu óc chẳng tập trung được! Bây giờ đọc sách để làm gì? Chính là để có tiền có quyền, mà con không vào được trường tốt, thì lấy đâu ra tiền! Cứ chờ xem, lớn lên mà không có tiền, chẳng ai cho con chơi mạt chược đâu!” Mẹ Lâm phân tích mọi thứ, từ hoàn cảnh xã hội đến nghề nghiệp của mình, tỉ mỉ và hoàn hảo.
“Mẹ tìm con để nói chuyện, là để nói mấy chuyện này à?” Vũ Tường thất vọng nói.
Mẹ Lâm vẫn chưa thấy thỏa, nói lời chia tay còn quá sớm, kiên trì tiếp tục: “Còn cái nào nữa? Những cái này đã đủ để con phải nỗ lực rồi! Mẹ bàn với bố con, sẽ mời cho con một gia sư để dạy con học cho tử tế!”
Trở về phòng, Mẹ Lâm bàn với cha Lâm chuyện thuê gia sư. Mẹ Lâm tin chắc rằng con trai đã uống loại thuốc bổ trí tuệ bà nhờ mua, trí tuệ nhất định sẽ tăng vọt, và với lợi ích của việc có thêm gia sư riêng, chắc chắn cậu sẽ đỗ vào được một trường tốt.
Cha Lâm cho rằng tốt nhất nên chọn một giáo viên thông thạo đồng thời ba môn ngữ văn, toán, ngoại ngữ, để dạy kèm cùng lúc. Cách này vừa tiết kiệm chi phí, vừa tạo cho con một điểm tựa tâm lý. Nếu chỉ có một gia sư, học sinh sẽ chuyển từ chuyên nhất sang chuyên tâm. Chọn giáo viên cũng như chọn bạn đời, không thể càng nhiều càng tốt, phải gắn bó với một người và học trọn kiến thức của người thầy ấy. Mao Trạch Đông có dạy: “Giữ chặt một cái, ăn hết một cái!” Nói xong, cha Lâm cười đắc ý.
Mẹ Lâm phản đối, vì một giáo viên thông thạo cả ba môn giống như loại dầu gội ba trong một trên thị trường, chức năng đầy đủ nhưng chẳng cái nào thực sự hiệu quả.
Cha Lâm nói kỹ từng chữ rằng, đã là “thông thạo” thì tất nhiên tất cả đều phải là hạng nhất.
Về điểm này hai người đã miễn cưỡng đạt được sự đồng thuận. Bước tiếp theo là việc liên hệ với gia sư cụ thể. Nghề giáo viên thì không hấp dẫn nhưng nghề dạy kèm riêng lại đang bùng nổ. Có thể thấy rõ việc tìm kiếm kiến thức cũng giống như hẹn hò, hẹn hò cả chục người thì bị xem là thấp kém, còn hẹn hò một với một thì được xem là quý giá. Cái quý giá tất nhiên là đắt đỏ, một giờ tốn đến vài chục tệ, cơ bản mức giá giống như với gái mại dâm. Cùng là kiếm tiền, nhưng giáo viên lợi hại hơn gái mại dâm nhiều. Gái mại dâm kiếm tiền vì mang lại khoái cảm cho khách, ngược lại giáo viên gây ra đau đớn nhưng vẫn lấy tiền, đó chính là vẻ vĩ đại của nghề gia sư.
Bởi vì nghề gia sư vĩ đại như vậy, nên thu hút nhiều người tầm thường cũng tham gia vào lĩnh vực này, dẫn đến sự pha trộn cả tốt và xấu, trong đó cả tốt và xấu đều không thể đoán trước được.
Cha Lâm muốn chọn một gia sư giỏi. Các trung tâm gia sư không có nhiều lựa chọn tốt, ông phải nhờ bạn bè giới thiệu. Cha Lâm có một người bạn từng gặp một lần, người này chuyên tổ chức kết nối gia sư với học sinh và lấy chút tiền hoa hồng, nhưng chỉ bấy nhiêu cũng đủ nuôi anh ta béo tốt. Anh ta cao lớn, người khác đặt cho biệt danh “Bạch Bàn Cao” (trắng, béo, cao) như một món đồ uống lạnh. Mức độ nổi tiếng và thời gian “hot” cũng giống như đồ uống lạnh, gần tới tháng Bảy nóng bức, người nhờ anh ta càng nhiều. Cha Lâm nhìn xa trông rộng, vẫn là mùa đông nhưng đã hành động sớm, bỏ cả nửa ngày lục tìm số điện thoại của người bạn đó. Bạch Bàn Cao có trí nhớ kém, cha Lâm còn nhớ anh ta nhưng anh ta thì không; chỉ “ừm” một tiếng mơ hồ. Qua sự hướng dẫn tỉ mỉ của cha Lâm, ký ức mờ mờ của Bạch Bàn Cao cuối cùng sáng rõ trở lại, anh ta hào hứng khoe khoang: “Tôi còn tưởng là ai! Hóa ra là ông Lâm. Nói thật lòng với ông, các giáo viên ở đây đều giỏi nhất thành phố, hầu hết học sinh của chúng tôi đều có thể vào được các trường trung học phổ thông hàng đầu thành phố, thấp nhất thì cũng là các trường của quận. Ông cứ gửi con tới đây, tôi đảm bảo cháu sẽ được dạy dỗ để giỏi mọi môn!”
Cha Lâm vui mừng khôn xiết, ngay lập tức đồng ý, hẹn ngày mai sẽ thanh toán sau khi học xong tất cả các tiết. Môn học đầu tiên là Hóa học, bắt đầu từ ngày mai, từ sáu giờ tối đến chín giờ, tại quán bar Boss.
Ngày hôm sau, khi tan buổi học chính đã là năm giờ rưỡi, trên cầu chẳng còn cảnh hoàng hôn đẹp nữa, Vũ Tường vội về nhà ăn nhanh bữa cơm, rồi đạp xe đi tìm quán bar Boss. Anh tìm khắp mọi ngõ ngách, nhưng người chủ quán bar đó không có xu hướng khoe khoang như những người chủ quán bar thông thường, mà ngược lại trốn kỹ như một tên trộm.
Thời gian gần tới sáu giờ, Vũ Tường đành phải hỏi một ông già bán bánh nướng trên phố, người cả đời sống ở thị trấn này và thuộc lòng mọi địa danh. Nói theo ngôn ngữ nghề nghiệp của ông ấy thì ông đã quen thị trấn này “chín đến mức sắp cháy”. Không ngờ ông cũng có lúc hạn chế, suy nghĩ mãi mà không nhớ được quán bar Boss ở đâu. Vũ Tường đành gọi điện cho cha, cha Lâm tiếp tục gọi hỏi người bạn, qua vài vòng hỏi đáp rối rắm, cuối cùng mới biết quán bar Boss là một quán mới mở được một tuần, nằm ngay bên lề đường.
Trời đã tối, trong màn đêm xuất hiện một ngôi sao sớm nở, khiến màn đêm đặc biệt thê lương. Gió lạnh thốc xuyên mọi khe hở trên áo Vũ Tường, một luồng khí lạnh xoay vòng khắp người. Tìm kiếm khắp nơi giữa chốn tĩnh lặng hoang vắng, cuối cùng quán bar Boss cũng hiện ra trong ánh sáng mờ ảo.
Gương mặt trắng trẻo sáng bóng của Bạch Bàn Cao đã thay thế chức năng của chiếc đèn. Vũ Tường liền lần theo chỗ sáng mà đi tới, rồi nhiệt tình trò chuyện với Bạch Bàn Cao.
“Thầy chính là…”
“Cậu là Lâm Vũ Tường phải không? Tốt, tốt, tốt, trông có vẻ thông minh đấy. Học bồi dưỡng cho tử tế, nhất định sẽ đỗ vào một trường tốt!”
“Dạ, cảm ơn thầy ạ”
“Được rồi, không nói nữa, vào đi, bên trong còn có bạn học, có lẽ cậu quen đấy!”
Lâm Vũ Tường nghe theo bước vào cửa, thấy bên trong khói bụi mịt mù, một đám người đang hò hét chơi trò uống rượu, mấy cô tiếp viên che miệng cười ha hả, tiếng cười vang dội như xé mây rạch đá, khiến Vũ Tường chỉ biết tự hỏi sao lúc đầu mình lại không lần theo tiếng cười mà đến.
Bạch Bàn Cao khẽ phẩy tay, nói: “Nhỏ tiếng một chút, học sinh còn tiết học thêm đấy!” Những người ngồi quanh bàn rõ ràng đều là bạn thân của Bạch Bàn Cao, sẵn sàng im lặng vì “bông hoa tương lai của tổ quốc”. Bạch Bàn Cao dẫn Vũ Tường vào một căn phòng nhỏ. Bên trong có một chiếc bàn tròn, ba học sinh ngồi ngay ngắn, thêm một giáo viên, đích thực là một giáo viên “già” thực sự. Tính cách bảo thủ hiện rõ mồn một trên gương mặt, hằn trong những nếp nhăn. Quả là già đến mức cắn cũng không nổi. Giáo viên nghiêm nghị nói: “Ngồi xuống. Mọi người đều đã đến đông đủ, chúng ta bắt đầu thôi.”
Bạch Bàn Cao khom người đóng cửa rồi lui ra ngoài. Vừa bước được một bước thì phát hiện hình như quên điều gì, liền đẩy cửa vào nói: “Các em, để tôi giới thiệu một chút về thầy dạy hóa. Thầy rất nhiều kinh nghiệm, từng nhiều lần tham gia công tác ra đề thi trung khảo của thành phố Thượng Hải. Cho nên thầy rất có kinh nghiệm trong mấy việc này, ví dụ như cách ra đề thi, thật đấy!”
Thầy giáo vẫn giữ vẻ mặt thản nhiên, ra hiệu cho Bạch Bàn Cao có thể rời đi, rồi lại mở sách giảng bài. Phụ nữ càng già giọng càng lớn, còn đàn ông thì ngược lại. Ví dụ như thầy giáo dạy hóa học này, giọng nói mỏng như eo của một mỹ nhân trong cung điện của vua Sở Linh thời Xuân Thu. Nói được vài câu thì lại càng nhỏ hơn, đã mảnh như bàn tay của mỹ nhân giới thượng lưu Nga thế kỷ 19, đúng kiểu “chưa đầy một nắm”. Giọng yếu đến mức tưởng chừng như chỉ cần một hơi thở cũng có thể làm đứt. Bốn học sinh sợ đến không dám thở mạnh, chỉ còn biết rướn cổ lên nghe.
Cố gắng suốt một hồi lâu, đám học sinh cuối cùng cũng bắt đầu lơi lỏng, mà còn lơi lỏng một cách đầy yên tâm. Yêu đương kết thúc thì người ta thường tự an ủi bằng câu “tôi đã từng yêu”, và khi bài giảng kết thúc thì tự nhiên cũng có cảm xúc “từng nghe rồi”. Bất lực vì “có duyên mà không phận”, bất lực vì “có hơi mà không ra tiếng”, tất cả đều là lý do.
Bốn người bắt đầu nói chuyện riêng, ban đầu chỉ dùng giọng nhỏ tương đương với thầy hóa, thấy thầy không phản ứng gì thì càng ngày càng táo bạo. Chỉ tiếc rằng trong lòng vẫn bị tư tưởng Nho giáo Trung Quốc ràng buộc, nếu không thì đã bắt đầu chơi mạt chược rồi.
Thầy giáo vẫn giảng bài như thể chỉ dạy cho mình nghe. Vũ Tường liền hỏi cậu bạn oai vệ bên cạnh: “Này, cậu tên gì?”
Cậu bạn hùng dũng nói: “Lương Tử Quân.”
“Nương Tử Quân?”
“Là Lương…viết thế này này, nhìn này.” Lương Tử Quân viết nguệch ngoạc lên tờ giấy nháp trắng như tuyết.
“Không phải, đọc là ‘kẽm’ phải không?” Vũ Tường nói nhầm. Thấy rõ là hóa học thật sự có liên quan mật thiết đến đời sống hằng ngày. (ND: Chữ Tử “梓” viết gần giống chữ “锌”có nghĩa là kẽm)
Lương Tử Quân chế giễu: “Ồ, cậu thi trượt môn tiếng Trung rồi à, ngay cả chữ này cũng đọc sai.” Thực ra trong tên có một chữ ít dùng cũng là một lợi thế lớn của cậu ta, gặp người không biết thì có cơ hội dạy dỗ tận tình. Lâm Vũ Tường chính là nạn nhân trực tiếp trong chuyện này, đỏ mặt bối rối không biết phải làm sao.
Lương Tử Quân ghi thêm phiên âm, nói: “Đọc thế này, hiểu chưa hả?”
“Tôi…tôi chỉ lỡ nhìn nhầm một chút thôi.” Lâm Vũ Tường cười ngượng ngùng nói.
“Môn tiếng Trung của cậu chắc kém lắm phải không?” Lương Tử Quân suy đoán.
“Sao có thể như vậy được!” Vũ Tường phấn khích kêu lên, suýt nữa thì đập tay xuống bàn. “Điểm tiếng Trung của tôi thuộc hàng top toàn trường…” Cậu dừng lại, lén liếc nhìn huy hiệu trường trên ngực áo của hai học sinh kia. May mà họ là người từ thị trấn khác, không biết lai lịch của cậu, nên cậu lớn tiếng tuyên bố: “Là điểm cao nhất nhì toàn trường!”
“Thật sao? Sao mà chưa nghe nói về cậu được chứ, tên gì nhỉ? À…tên đầy đủ là Lâm Vũ Tường hả?”
Lâm Vũ Tường toát mồ hôi lạnh, tự trách mình quên nhìn huy hiệu của Lương Tử Quân, trong lòng thầm nghĩ sao mỗi khi đến lớp cuối cấp, những học sinh mới lại mọc lên như mầm non mùa xuân.
Cậu mầm non tiếp tục nói: “Chắc cậu đang khoác lác phải không!”
“Không! Chỉ là gần đây tôi đang chuyển sang học khối tự nhiên. Nhìn xem, mình đang học bồi dưỡng hóa phải không? Hừ! Thầy giáo trình độ kém quá!”
Lương Tử Quân trúng kế, bị câu cuối lay động, liền chuyển hướng công kích thầy hóa: “Đúng vậy, bố tôi tốn nhiều tiền để nhờ người giới thiệu một ‘chuyên gia dạy bồi dưỡng’, nhưng xem ra không giống vậy, nhưng bố tôi có rất nhiều tiền nên cũng chẳng sao. Không khéo năm nay còn phải lưu ban nữa kìa!”
Vũ Tường kinh ngạc hỏi: “Còn phải…lưu ban à? Ý cậu là……”
Lương Tử Quân tự hào nói: “Năm kia tôi còn lưu ban một năm cơ! Chết tiệt, thi kém chút thôi, có gì to tát đâu. Dù sao bố tôi cũng có nhiều tiền, tôi học để làm gì? Học chỉ để kiếm tiền, giờ mục đích đã đạt, cần gì phải học nữa chứ?”
Nghe xong, Lâm Vũ Tường ước gì có thể giới thiệu mẹ mình cho Lương Tử Quân, vì hai người này dường như có tiếng nói chung.
Lương Tử Quân nói thêm: “Chỉ cần tốt nghiệp trung học cơ sở là tôi có thể vào được trường trung học phổ thông hàng đầu. Tôi nói thật đấy. Nếu cho 100.000 hay 200.000 tệ, hiệu trưởng và giáo viên sẽ đối xử với tôi vô cùng tôn trọng đến mức chỉ thiếu không xếp hàng ra đón thôi, haha.”
Lâm Vũ Tường đang tiếp thu những ý tưởng mới và chăm chú lắng nghe mà không chớp mắt.
Lương Tử Quân nói: “Cậu thử nghĩ xem, chủ nghĩa nọ chủ nghĩa kia, tư tưởng nọ tư tưởng kia, tất cả đều là lừa đảo, chỉ có tiền là thật. Cậu có tiền, mọi thứ sẽ tự đến, con gái thì càng không cần nói, nhưng đừng quá nhiều nhé!”
“Vậy à? Cậu có kinh nghiệm à?” Lâm Vũ Tường cẩn thận chen lời.
“Nói thừa! Này, tôi nói cho cậu biết, tôi nghiên cứu cái này rất sâu! Về chuyện tình cảm, cả thị trấn chẳng ai có thể với tôi… à, từ đó gọi là gì nhỉ, ‘so sánh’ phải không?”
Lâm Vũ Tường nghiêm túc sửa lại: “Phải là ‘sánh kịp’”. Rồi cậu cảm thấy trong lòng thoải mái hơn nhiều.
“Mặc kệ. Tóm lại tôi là số một!”
“Thật sao? Kể cho tôi nghe đi! Tôi muốn bái anh làm sư phụ!”
Lương Tử Quân thường dùng những lời này để hù dọa người khác, nhưng đáng tiếc, thực tế rất ít người bị lừa. Trước đây mỗi khi nhắc đến, người ta lại khinh khỉnh nói: “Cái này không có trong đề thi, học làm gì?”. Vậy nên lần nào cậu ta cũng như kiểu van xin ai đó nhận mình làm đồ đệ. Lần này, trò lừa của cậu ta đã thành công, cậu ta vội vàng nói: “Tóm lại, phụ nữ thích nhất hai loại đàn ông: một là giàu có, hai là có tài.”
Lâm Vũ Tường gật đầu đồng ý.
Lương Tử Quân lại vắt óc định hình câu triết lý tiếp theo, tiếc rằng trâu bò cũng không thể sinh ra trong một lúc, quá trình hình thành triết lý cũng phải thai nghén mười tháng. Cậu ta cố gắng thúc tốc, cuối cùng cũng cảm thấy như sắp sinh, nhưng không may lại sinh ra một quái thai: “Tôi nói cho cậu biết, thời nay con gái chẳng nhìn đàn ông đâu, chỉ nhìn tiền thôi. Thật ra thích gì ‘tài năng’ ấy, toàn giả! Chúng chỉ thích tài năng mà đổi được tiền, rốt cuộc vẫn là muốn tiền!”
“Ừm.” Quan niệm cũ của Lâm Vũ Tường bị lung lay đến mức sắp sụp đổ.
“Này, sau này cậu có thắc mắc gì về mấy chuyện này thì cứ việc hỏi tôi nhé! Tôi sẽ chỉ bảo cho.”
“Cảm ơn, cảm ơn.” Lâm Vũ Tường vốn ít trải sự đời, bị dỗ đến mức cảm thấy biết ơn Lương Tử Quân gấp đôi.
Lương Tử Quân nghiêm nghị nói: “Thực ra, chuyện này nói khó cũng không khó, chỉ cần mạnh dạn và tỉ mỉ, nói dối nhiều một chút, tỏ vẻ ngầu một chút, kết hợp lý thuyết với thực hành. Quần áo chú ý thay đổi thường xuyên, mỗi ngày một kiểu, ba ngày thay đổi hoàn toàn. Còn nữa, dùng nhiều lời lẽ ngọt ngào và nịnh nọt hơn, phụ nữ thực ra cũng giống như động vật vậy, chỉ cần thêm vài lời nịnh nọt và vài cái xoa đầu, họ sẽ ngoan ngoãn nghe lời thôi!”
“Ồ, đúng vậy.” Lâm Vũ Tường cảm thấy rất có lợi, nghĩ rằng cha mình thật sự đã bỏ tiền ra để dạy cho con trai mình một bài học sâu sắc như vậy, có lợi cho cả đời.
Lương Tử Quân lại say sưa nói, thật tiếc nếu không làm thầy giáo: “Tôi nói cho cậu biết, điều quan trọng nhất vẫn là viết thư tình. Con gái thích thứ đó nhất, đặc biệt là bức thư đầu tiên, quan trọng nhất!”
“Thật sao?”
“Hỏi thừa, tất nhiên rồi! Câu là người giỏi nhất! Cậu có thể bắt chước thơ Đường Tống, phụ nữ thích thế lắm!” Lương Tử Quân nói chắc nịch.
“Ồ, vậy thì tôi phải viết thế nào đây?”
“Tôi nói cho cậu biết, điều phụ nữ thích ngay từ cái nhìn đầu tiên chính là tài năng. Nếu đàn ông có tài năng, cô ấy mới có vốn để khoe khoang. Sau đó, để phát triển mối quan hệ, một khi họ đủ thân mật để người đàn ông gọi cô ấy là ‘Bảo Bối’ (宝贝), cô ấy giữ lại chữ ‘Bảo’(宝), còn chữ ‘Bối’ (贝) thì trao cho ‘Tài’ (才) của cậu, vậy là cô ấy chỉ yêu ‘Tài’ (财 – tài sản) thôi.” Nói xong, chính cậu ta cũng ngạc nhiên. “Thuyết Văn Giải Tự” đặt trước mặt Lương Tử Quân cũng trở nên lu mờ. Anh ta rất giỏi giải mã chữ viết, nhưng lại không trả lời trực tiếp câu hỏi của Lâm Vũ Tường. Lương Tử Quân vốn không phải là giáo viên, nhưng đã học được thói quen xấu của hầu hết giáo viên trên thế giới.
Lâm Vũ Tường ấn tượng đến nỗi quên mất mình đã hỏi gì, chỉ liên tục khen ngợi: “Nói rất có lý!”
Lương Tử Quân lúc này mới nhớ ra, nói: “Ồ, lúc nãy cậu hỏi tôi cách viết phải không? Chuyện đó quá đơn giản. Tôi nói cho cậu biết, điều quan trọng nhất là thể hiện tài văn chương, dùng nhiều mấy từ kiểu ‘hoa xuân, trăng thu, hoa gió, trăng tuyết’, viết lãng mạn một chút, tự nhiên người ta sẽ thích!”
Sau khi kết thúc tiết lý thuyết, Lương Tử Quân mở vở ra, phơi bày những tia sáng cảm hứng của mình, vở tràn ngập thơ tình. Một sự giao thoa giữa cổ đại và hiện đại, giữa Trung Hoa và Mỹ:
My Love: (Tình yêu của anh:)
Mỹ nhân vén rèm ngọc, ngồi sâu bên trong nhíu mày. Anh chăm chú nhìn vào mắt nàng, thấy một vẻ đẹp phi thường. There’s a summer place where it may rain of storm. There’re no gloomy Sky when seen through the eyes of there who are blessed with love and the sweet secret of a summer place is that it’s any where. (Có một nơi mùa hè mà mưa bão có thể trút xuống. Bầu trời u ám không hề hiện hữu khi nhìn qua đôi mắt của những người được ban tặng tình yêu, và bí mật ngọt ngào của một nơi mùa hè chính là nó ở bất cứ đâu.) Giữa những thăng trầm của yêu và hận, trái tim anh sẽ không bao giờ thay đổi. Dù thế giới có thay đổi, anh sẽ theo đuổi em đến tận cùng trái đất. Anh không quan tâm đến hôm qua, anh không quan tâm đến ngày mai, anh vứt bỏ mọi thứ trên thế gian này, chỉ nghĩ đến em.
Vũ Tường thấy bài thơ này hay hơn hẳn bài “Rút lui quên đậu đỏ” của anh họ mình, dễ hiểu, liền tâng bốc: “Bài thơ này hay! Rất dễ hiểu!”
“Cái gì cơ?! Vậy thì lỗi thời quá rồi. Thơ hay nhất là thơ nửa sáng nửa tối, hiểu chưa?” Quan điểm của Lương Tử Quân về cơ bản giống hệt anh họ của Ngọc Tường, điều này cho thấy anh họ Ngọc Tường đã lãng phí bốn năm cuộc đời.
“Ừ, hóa ra là vậy! Ai dạy cậu vậy, vậy…cậu có ngưỡng mộ ai không?”
“Người ngưỡng mộ? Tôi…tôi chỉ ngưỡng mộ chính tôi thôi.” Lương Tử Quân giận dữ, ước gì có thể chạy theo Nietzsche hô to “Đả đảo thần tượng!”, giọng mạnh lên một bậc: “Tôi không có người nào để kính trọng, tôi có đầy tiền đây.”
Lời nói này lớn quá, khiến thầy hóa phải xấu hổ vì lời nói của mình, cuối cùng mới nghiêm giọng: “Các em đừng làm ồn!” Câu nói như từ trời rơi xuống, làm cả phòng bỗng im lặng. Rồi thầy lại cúi đầu nhỏ giọng giảng hóa học. Bốn học sinh hơi tập trung nghe, nhận ra thầy hóa chắc xuất thân từ giới văn nhân, nói năng đặc biệt lan man, như bom của Đế quốc Áo-Hung, nhiều nhưng chẳng trúng đích nào, chỉ nghe ông nói về “phương pháp học hóa của nhà hoá học Men-đê-lê-ép”, một tràng từ ngữ vô tận làm giảm đi sự nhiệt tình của bốn người, và họ quay lại với cuộc trò chuyện của riêng mình.
Lương Tử Quân lại hỏi: “Bạn Lâm, bạn cũng có cái đó không?”
“Ừm… không có, không có”, Lâm Vũ Tường nói vậy vốn là để kích Lương Tử Quân tò mò hỏi tiếp, để mình có dịp nói tâm sự cho oai. Không ngờ giọng điệu lại quá giống thật, khiến Lương Tử Quân phất tay bảo: “Thôi, tôi không hỏi cậu nữa.”
“Thật ra… cũng… tôi cũng, thôi bỏ đi vậy!” Vũ Tường nói.
Lương Tử Quân tự hào nói: “Cậu đó, tôi thấy cậu khó xử như vậy, chuyện này chắc khiến cậu khổ tâm rồi! Để tôi chọn giúp cho.”
Vũ Tường tưởng rằng Lương Tử Quân quả thật rất có uy tín, đích thân chọn giúp mình, lẽ ra phải cảm kích vô cùng. Thế nhưng trong lòng cậu đã có mục tiêu, đổi người giữa chừng tất sẽ cảm thấy tội lỗi, nên đành đau lòng từ chối: “Không cần, không cần đâu.”
Lương Tử Quân nghe vậy thì thầm thở phào trong lòng, nghĩ bụng may mà thằng nhóc Lâm Vũ Tường vì ngượng nên từ chối, nếu không thì mình khổ to. Lời nói bật ra cũng như trút được gánh nặng, nhẹ nhõm như quân lính đi xa, vang lên khe khẽ trong căn phòng nhỏ: “Cũng tốt! Tự chọn cũng tốt!”
Thầy hóa bỏ rơi Men-đê-lê-ép, liếc cậu ta một cái. Rồi lại tiếc, bèn nhặt lên tiếp tục giảng.
Đến chín giờ, bốn người nói hết những gì cần nói, mệt mỏi muốn ngủ. Thầy hóa hoàn thành nhiệm vụ, cuốn sách lại kẹp nách rồi đi mà không quay đầu. Bạch Bàn Cao bước vào hỏi: “Hiệu quả thế nào?”
“Tốt…” cả bốn người đều reo lên.
“Tốt thì tốt, thầy tôi mời đều là… trình độ hàng đầu. Thứ Sáu tuần này lại đến học bồi dưỡng tiếng Anh, là sinh viên sau đại học, tiếng Anh cấp 8.”
Hai cô gái nhảy lên hỏi: “Đẹp trai không? Ồ, rất có tài năng phải không?”
Bạch Bàn Cao hiểu cách các bộ phim truyền hình để lại tình tiết gây cấn cuối mỗi tập để thu hút người xem, liền nói: “Đến lúc đó các em sẽ biết thôi!” Hai “con bọ nhảy” vui mừng vỗ tay: “Chúng tôi nhất định phải đến!”
Đêm đã khuya. Vô số vì sao nối liền bầu trời và mặt đất mênh mông. Ánh sáng xa nhất bỗng nhiên trở nên gần.
Đêm đó Lâm Vũ Tường trằn trọc không ngủ được, kiến thức mà Lương Tử Quân nhồi nhét quá nhiều, khó mà tiêu hóa. Đành phải xem lại cẩn thận một lần, càng nghĩ càng thấy hợp lý, ước gì có thể nhảy ra khỏi chăn để viết thư tình. Thật tiếc, dù sức mạnh của tình yêu thật vĩ đại, nhưng lực sĩ cũng chưa chắc chịu được giá rét. Linh hồn Vũ Tường lặng lẽ nhảy ra ba lần, nhưng lạnh quá, phải quay về báo với thể xác rằng không thể nhảy được.
Sau khi cân nhắc, Vũ Tường quyết định viết trên giường. Bởi các học giả tin rằng mọi câu chuyện tình yêu trong sáng và đẹp đẽ đều kết thúc trên giường. Nếu thực sự như vậy, thì nếu có thể bắt đầu trên giường, cũng coi như một sự khởi đầu và kết thúc trọn vẹn.
Cảm giác viết bức thư tình đầu tiên cho một người giống như một đứa trẻ bắt ếch. Nghe thấy tiếng chúng kêu từ xa, nhưng khi đến gần, chúng đã biến mất hoặc nhảy xuống nước hết. Cuối cùng, phát hiện một con ếch nằm bên vệ đường, sẵn sàng bắt lấy nó, nhưng con ếch như có một linh cảm, đã trốn thoát trong chớp mắt. Trước khi đặt bút, Vũ Tường thấy cảm hứng rối rắm, ý tưởng nhiều đến mức không thể viết hết. Nhưng vừa bắt đầu viết, lại không biết câu nào làm phần mở đầu, câu nào để chuyển tiếp, cảm thấy lo lắng và bất an. Cảm hứng thật khó nắm bắt, cứ thế vuột mất một cách vui tươi.
Cắn bút trầm ngâm, Vũ Tường nghĩ nên thử dùng “đa dạng văn học”, với bức thư đầu tiên, tốt nhất vẫn là thơ, khéo léo không phô bày mới là đẹp. Lúc này cậu nhớ đến thơ mà anh họ gửi, vội xuống giường tìm, cuối cùng tìm ra được “Thiếu Niên Du” và “Tô Mộc Chiêu” để trải nghiệm ý cảnh của chúng. Cậu thấy hai bài này quá bi thương, đành giữ lại chờ lúc chia tay mới dùng đến. Còn bài “Năm đó em quyết định đi về phương Nam” của Triệu Truyền dường như ý cảnh không hợp, bài “Lẽ ra phải yêu em ngay từ đầu” cũng quá phô bày. Sau khi so sánh, cậu thấy bài thơ thứ ba có tiềm năng nên đã trích xuất và chỉnh sửa lại. Chỉ cần thay đổi một vài từ, ý nghĩa chung đã thay đổi đáng kể, khiến bài thơ này trở thành một bài thơ tình:
Có phải em muốn đi về phương Bắc,
Để anh thôi ý định hướng phương Nam.
Em muốn đến chốn thành phố mênh mang,
Anh cuối cùng cũng đành theo em bước.
Thời gian trôi vùn vụt như gió thoảng,
E rằng ta chẳng còn ngày gặp nhau.
Anh xin chôn mối tình ấy thật sâu,
Cho đến khi ký ức thành tro bụi.
Em có muốn cùng anh buớc tiếp không?
Hết hành trình lòng tràn ngập ưu tư.
Hãy gạt bỏ ân oán của thế gian,
Lớn dần lên trong kiếp sống vô thường.
Nguyện cùng anh bước đi tiếp được không?
Đừng để lòng đấu tranh trong gió lạnh.
Hãy theo anh, em sẽ không còn sợ,
Để cùng xây một mái ấm bình yên.
Phải mất hơn một tiếng đồng hồ để viết được mười sáu câu, thay đổi cách gieo vần ba lần, cuối cùng cậu mới hoàn thành. Bài thơ nhỏ này đã vắt kiệt hết tài năng của cậu ta. Cậu cảm thấy làm thơ đúng là một cực hình của đời người, chẳng trách hầu hết các nhà thơ trong lịch sử đều gầy gò đến mức gần như chỉ còn da bọc xương.
Người mẹ chẳng bao giờ ghét con mình vì con mình xấu. Vũ Tường càng đọc bài thơ này lại càng thấy thích. Thật ra trong bài thơ đúng là có một chỗ rất hay, hàm ý sâu sắc. Đoạn thứ nhất là muốn đi theo phía cô gái, đó là lời dối trá phổ biến của đàn ông khi mới theo đuổi. Đến đoạn thứ tư thì không che giấu được nữa, bản tính lộ ra, biến thành ‘hãy theo anh’, mới là sự thành thật thực sự.
Viết xong bài thơ thì đã quá mười hai giờ. Vũ Tường gần như muốn lao ra ngoài để gửi nó đi ngay. Tâm sự đã được giải tỏa, cơn buồn ngủ cũng tự tìm đến. Giấc ngủ lần này ngon đến lạ thường, mơ hết giấc này đến giấc khác, như thể niềm vui đêm nay đã nuốt trọn tất cả những giấc mơ của vài ngày tới.
Ngày hôm sau Vũ Tường dậy muộn. Đúng lúc đó mẹ họ Lâm về đến nhà, gọi con trai dậy. Vũ Tường tỉnh dậy là tìm bài thơ tình trước, rồi mới mặc quần áo. Cậu cố nhớ lại giấc mơ đêm qua, nhưng cảnh mơ thì chẳng còn gì cả. Mơ rồi mà không nhớ được đúng là một nỗi tiếc nuối, giống hệt như bài viết đã đăng rồi mà không nhận được nhuận bút vậy.
Cậu vội vã đến trường, vừa đúng lúc Susan cũng đang ở hành lang đọc thuộc tiếng Anh, cả hai nhìn nhau cười, ngược lại khiến Lâm Vũ Tường hoảng hốt, dũng khí của đêm qua biến mất không còn dấu vết. Cậu buồn bã bước vào lớp, tự thấy lạ vì sao dũng khí lại ngắn ngủi đến vậy, dường như mọi dũng khí lớn nhất trên đời cũng giống như một bông hoa mỏng manh, chỉ nở thoáng qua vào ban đêm. Suy nghĩ mãi, cậu vẫn không dám đưa thư, bèn để vào cặp đợi xem sao đã. Vì thiếu ngủ, Lâm Vũ Tường ngủ gật suốt buổi học. Vũ Tường bị thầy giáo tiếng Anh phát hiện và hỏi một câu làm khó, Vũ Tường hồn nhiên đáp một câu ‘Pardon, thầy nói lại một lần nữa được không ạ’, cậu đã kịp chặn đứng câu hỏi của thầy. Thầy tiếng Anh gần đây cũng đang học thêm và ngủ muộn, không kịp soạn bài nên các câu hỏi đều hỏi ngẫu nhiên, hỏi xong thầy cũng không nhớ mình đã hỏi gì, đành liên tục nói với Vũ Tường: “Nothing, Nothing, Sit down, Please sit down, don’t sleep.” (Không có gì, không có gì, ngồi xuống, mời ngồi, không ngủ gật). Vũ Tường chưa nghe tới câu ‘Don’t sleep’ đã lại buồn ngủ, lại cúi đầu ngủ tiếp.
Ở câu lạc bộ văn học chẳng có động tĩnh gì lớn, vẫn đang chờ kết quả cuộc thi sáng tác. Mã Đức Bảo háo hức chờ đợi, còn vui vẻ nói: ‘Họ chấm chậm, đủ thấy số người tham gia đông và trình độ cao.’ Lời nói này lừa được cả nhóm học sinh chỉ có bút lực của nhà văn nhưng chưa rèn luyện được sự ranh mãnh của nhà văn, khiến họ tin sái cổ.
Các tiết học hàng tuần cũng thật nhàm chán. Bài giảng của Mã Đức Bảo chỉ kéo dài thời gian chứ không mở rộng được nội dung, ông ta dùng hết bốn tiết trong một tháng để nói lịch sử văn học Trung Quốc và phương Tây. Không còn bài giảng nào, đành phải giới thiệu tiểu sử các nhà văn, nên đi mượn một cuốn sách về lịch sử thành danh của các tác giả. Thật không may, tác giả cuốn sách đó dường như đã đọc quá nhiều về Chủ nghĩa Tương lai Lập thể với tuyên ngôn như “một cái tát vào mặt thị hiếu xã hội”. Từng chữ như tát vào mặt các đại văn hào, và ngay cả Mã Đức Bảo cũng cảm thấy tội lỗi khi đọc to nó. Ví dụ như “Quách Mạt Nhược về sau biến thành cái loa của Đảng, viết thô bỉ những câu thơ kinh tởm kiểu “mỗi mẫu ruộng năng suất lúa vạn cân”, loại người này không đáng để người Trung Quốc ghi nhớ,” ý ngầm là muốn người nước ngoài ghi nhớ. Còn có: “Kafka không chỉ bệnh hoạn mà còn ngu dốt, không biết viết văn, không có đầu óc. Trong truyện ‘Hoá thân’, Gregor Samsa biến thành con bọ mà sao bản thân hắn lại không ngạc nhiên? Đây là minh chứng cho sự ngu dốt của ông ta. Người Đức nên quên ông ta đi!” Mã Đức Bảo đọc mà thấy không ổn, không dám đọc tiếp. Nhìn trang bìa sách có ba dòng chữ lớn: ‘Không thích Lỗ Tấn, bạn là đồ ngốc; không thích Marinetti – người sáng lập Chủ nghĩa Tương lai, bạn là đần; không thích tôi, bạn già nua đến mức không còn cứu được.’”
Mã Đức Bảo không biết Marinetti, người được Mussolini yêu thích, nên tất nhiên cũng không có thiện cảm với ông ta, đọc tiếp đến điều thứ ba thì sợ đến mức run rẩy, tưởng mình già đến mức không còn cứu được. Nhưng quả thực, tuổi già là vô phương cứu chữa.”
Mã Đức Bảo sau đó chuyển sang một cuốn “Tiểu sử các nhà văn Trung Quốc” chính thống và minh oan cho một số tác giả đầu tiên, nhưng vì ấn tượng ban đầu, tư tưởng của học sinh ngoan cố không chịu thay đổi, gặp ai cũng nói Quách Mạt Nhược là kẻ xấu, Kafka là đồ ngu. May mắn thay, hầu hết học sinh ngày nay chưa từng nghe đến hai cái tên này.
Ngày hôm đó Mã Đức Bảo giảng về các bài luận của Hứa Địa Sơn, và còn mang cả tác phẩm của chính mình ra so sánh để nhấn mạnh sự non nớt trong văn phong của Hứa Địa Sơn. Học sinh thì chẳng hứng thú, tự làm việc của mình. Cuối cùng Mã Đức Bảo tự hào nói tập tản văn tập một của ông đã bán sạch và sắp tái bản. Các học sinh ngây thơ và không biết rằng đó thực chất là một chương trình tặng sách, đều bỏ việc trong tay xuống để chúc mừng thầy Mã. Mã Đức Bảo nói ông sắp xuất bản tập tản văn thứ hai của mình, tạm đặt tên là “Ngày mai của ngày mai của ngày mai”, nói rằng cái tên đó mang đậm khí chất học thuật. Các học sinh càng thêm tin tưởng, như thể một loạt dấu ngoặc kép hiện ra trước mắt họ. Ngay cả tựa đề cuốn sách cũng được mượn từ một nhóm nhạc thuộc hãng đĩa Shanghua Records của Power Station tại Đài Loan. Học sinh đều rất mong chờ cuốn sách “ba ngày sau” này của Mã Đức Bảo.”
Tối thứ Sáu theo thường lệ vẫn đi học thêm tiếng Anh. Tiếng Anh của Lâm Vũ Tường kém, nói chuyện với người Anh thì chỉ hỏi được tên và giới tính của người ta, còn lại đều không đủ trình độ. Cha Lâm rất coi trọng tiếng Anh. Trong kế hoạch mười năm dành cho con trai, ông hình dung ra con trai sẽ du học sau bảy năm tới, với vô vàn khát vọng. Nhưng ông tin chắc rằng cuối cùng trong mười ba trường đại học danh tiếng thế giới gồm Yale, Harvard, Tokyo, Waseda, Stanford, Sydney, Oxford, Cambridge, London, Paris, MIT, Columbia và Moscow, nhất định sẽ có một trường may mắn nhận được con trai ông. Gần đây phạm vi nghiên cứu của cha Lâm cũng thu hẹp, nước Nga quá lạnh, thất bại của quân Napoleon và Hitler phần lớn không phải do người Nga mà do cái lạnh của nước Nga. Con trai ông lớn lên ở vùng ôn đới và không thể chịu đựng được gian khổ hay cái lạnh. Hơn nữa, nước Nga dường như bất kể theo chủ nghĩa nào cũng gắn với đói nghèo, đến mức một số nước xã hội chủ nghĩa đã rất nghèo cũng không dám học theo Nga để rồi nghèo hơn nữa, mà thay vào đó lại tìm kiếm sự hướng dẫn từ Trung Quốc. Rõ ràng là việc vào Đại học Moscow kém hấp dẫn hơn so với việc vào Đại học Bắc Kinh hay Đại học Phúc Đán. Cha mẹ Lâm vừa vứt đi một mục tiêu, rồi tiếp tục cắt giảm. Những kẻ theo chủ nghĩa quân phiệt còn sót lại ở Nhật thường xuyên hô hào rằng vụ thảm sát Nam Kinh không phải do họ, khiến cha Lâm mất hết thiện cảm với cả nước Nhật. Hai đại học Nhật Bản cũng mất sức hấp dẫn. Con trai ông không giỏi khoa học, và MIT cũng không phù hợp, chỉ còn chín lựa chọn. Chín trường này đều nằm ở Anh, Mỹ, Pháp, Úc, dùng chung tiếng Anh, cho nên khi ép con học văn cổ, cha Lâm cũng ép con học tiếng Anh. Vũ Tường đã chạm đến nền văn hóa thâm sâu của Trung Quốc, và lòng yêu nước của anh trở nên mãnh liệt đến mức anh trở nên ghét tiếng Anh, điểm tiếng Anh luôn rớt lại phía sau khiến việc học thêm trở nên vô cùng cấp thiết.
Trước khi con trai đi, cha Lâm nhét cho cậu một cây bút Parker, dặn cậu đưa bút cho Bạch Bàn Cao, nhờ anh ta đặc biệt chăm sóc Vũ Tường. Buổi học thêm lần này không tổ chức ở quán bar Boss mà len lỏi vào trụ sở ủy ban thị trấn. Mới 5 giờ 45 phút, khi Vũ Tường đến nơi, cổng cơ quan thị trấn mở toang nhưng bên trong thì trống không. Công chức ở thị trấn này làm việc gì cũng chậm, điều duy nhất họ có thể tự hào là tốc độ tan sở rất nhanh. Tiếng chuông 5 giờ 30 phút giống như còi báo động không kích, có thể khiến một cơ quan đông người như thế rút sạch trong vòng mười phút, đủ khiến các danh tướng lục quân trong lịch sử phải đỏ mắt ghen tị.
Cơ quan rất lớn, xây dựng vô cùng trang nhã, còn có cả kiến trúc cổ điển. Địa điểm học thêm lần này may mắn nằm trong tòa nhà có kiến trúc cổ điển đó. Tòa nhà số năm đó, nằm lọt thỏm giữa những hàng cây. Nghe nói người thiết kế chính là một nhân vật nổi tiếng của thị trấn nhỏ này. Dĩ nhiên người đó sẽ không sống ở thị trấn, sớm đã đến Thượng Hải định cư ở biệt thự trong ‘Vườn La Mã’. Sau khi tốt nghiệp trung học cơ sở, ông ta đã đỗ vào trường trọng điểm Nam Tam Trung của thành phố một cách kỳ diệu, rồi lại kỳ diệu đỗ vào Đại học Nam Khai, rồi lại kỳ diệu sang Cambridge học một năm ngành kiến trúc trứ danh nổi tiếng toàn cầu. Đại học Cambridge quả không hổ danh là ngôi trường kỳ diệu, nơi “ngay cả ngủ ở đó cũng khiến bạn thông minh hơn”. Ông ta đã ngủ ở đó một năm, rồi trở về nhà trong chiến thắng, trở thành một ngôi sao đang lên trong làng kiến trúc Thượng Hải, và tự hào nhận lời mời của quê hương để thiết kế công trình tráng lệ này.
Đó chính là nơi ở của bí thư thị trấn. Đẹp như cung điện. Mang đậm phong cách La Mã. Bạch Bàn Cao đang đợi người trong phòng tiếp tân, bên cạnh một sinh viên đại học nhút nhát với cái miệng rộng và đôi mắt nhỏ, đặc điểm ngoại hình của một người nhìn ít mà nói nhiều. Chắc chắn anh ta sẽ làm hai cô gái thất vọng.
Lương Tử Quân đến muộn nhất. Buổi học thêm lập tức bắt đầu. Anh sinh viên đại học dùng tiếng Anh giới thiệu bản thân, xong rồi chờ phản ứng của học sinh, hận không thể thay học sinh nói với chính mình: “I’ve often heard about you! (Tôi đã nghe nói về anh nhiều rồi!), ngưỡng mộ đại danh từ lâu.” Sau khi thất vọng, anh ta bắt đầu giảng bài, thấy học sinh không chịu chú ý thì nói: “You are wanker! (Các cậu là người cẩu thả!), Các cậu không phải là người nghiêm túc.”
Các học sinh không hiểu, anh ta bảo học sinh tra từ điển, nói rằng học tiếng Anh thì phải tra nhiều từ mới, phải dùng nhiều từ ít gặp, còn tưởng học sinh sẽ reo lên: “Hóa ra “wanker” có nghĩa là “người làm việc cẩu thả”! Em hiểu rồi!” Nào ngờ các học sinh đều đang cười thầm, hai cô gái đỏ bừng cả mặt. Anh ta dùng uy của người thầy mà quát: “Cười cái gì!”
Lương Tử Quân cười khổ nói: “Chúng em không phải…”.
“Sao lại không phải? Tiếng Anh của em giỏi hơn tiếng Anh của tôi à?”, anh sinh viên đại học tức giận nói.
Lương Tử Quân đưa cuốn từ điển qua. Anh sinh viên đại học chộp lấy, lật từ cuối lên trên. Thấy định nghĩa thứ hai của “Wanker” đúng là “người làm việc không nghiêm túc”, liền định lên giọng dạy dỗ. Không ngờ vô tình nhìn thấy nghĩa thứ nhất lại là “kẻ thủ dâm”. Anh lập tức đỏ mặt, trách giáo sư chỉ giải thích nghĩa rộng chứ không giải thích nghĩa đen. Hơn nữa, vị giáo sư đó luôn gọi những sinh viên nghịch ngợm là “Wanker”, và bản thân anh sinh viên cũng đã bị gọi là “Wanker” suốt sáu năm trước khi cuối cùng cũng đạt được cấp độ 8 môn tiếng Anh.
Lương Tử Quân cười nói: ” We are not cái đó.” (Bọn em không phải loại người đó), Lâm Vũ Tường cũng cười theo.
Anh sinh viên đột nhiên đứng phắt dậy, giơ tay như muốn đập mạnh quyển sách xuống đất rồi bỏ đi, sách là của mình, ném sẽ đau lòng, nên đành bỏ hiệu ứng, quay lưng đi luôn. Đến cửa, anh ta nhận ra đó là cửa của chính phủ, liền bù đắp bằng cách đập một cái vào cửa. Bốn học sinh đứng ngẩn ra, hoang mang trước tính khí của “con cưng của trời”. Bên ngoài, Bạch Bàn Cao gọi níu kéo: “Này, này!” Anh sinh viên cố tình nói lớn, cố ý để người bên trong nghe thấy: “Tôi không thể dạy mấy đứa học sinh này được. Tốt hơn là anh nên tìm người khác. Nuts! (Đồ điên)! Đồ khốn. Tôi đã dạy mười phút, trả mười đồng!” Anh sinh viên đưa tay ra nhận tiền.
“Anh chưa dạy xong mà, làm sao có thể…” Bạch Bàn Cao ngượng ngùng nói.
“You Nuts, too!” (Anh cũng điên!) Anh sinh viên tức giận quay người bỏ đi, đóng sầm cửa lại sau lưng.
“Bạch Bàn Cao đi vào, nhịn cơn giận, đưa một xấp đề thi xuống và nói: ‘Chào các em, các em làm thầy bỏ đi mất rồi, làm đề đi, tôi sẽ đi liên hệ lại!”
Bốn người nào còn tâm trạng làm đề thi. Hai cô gái hết lời khen ngợi thầy giáo, nói rằng họ thích những chàng trai có tính cách nổi loạn, ghét là anh ấy chân khỏe quá, đi một lúc là biến mất, nếu không thì phải kéo về mới được.
Lương Tử Quân trở về nghề cũ, nói: “Lúc trở về, cậu có rút ra được điều gì không?”
Vũ Tường im lặng không nói gì.
Lương Tử Quân hớn hở nói: “Nói cho cậu biết, chuyện này cần có gan. Liều một phen, cùng lắm thì đổi người khác.”
Một lời danh ngôn quả thật sâu sắc đến mức nó đã xua tan ngay sự u ám trong lòng Lâm Vũ Tường.
“Ồ, ra là vậy! Nào nào, cậu xem giúp tôi bài thơ tình này tôi viết có được không?” Vũ Tường lục trong cặp lấy ra một tờ giấy đã trải qua bao sóng gió. Tờ giấy mang vẻ cổ xưa, đến mức nhà khảo cổ nhìn thấy cũng phải thèm chảy nước miếng.
Lương Tử Quân nhận lấy món cổ vật, xem kỹ một lượt, hết lời tán thưởng, nói: “Hay, hay, thơ hay! Có hương vị! Có hương vị.” Nói rồi như hận không thể nuốt vào bụng.
Lâm Vũ Tường vui vẻ cúi đầu, đỏ mặt cười.
Lương Tử Quân nói: “Tài văn chương của cậu cũng không tệ. Tôi suýt nghĩ cậu là người mù chữ rồi. Thơ như thế này nhất định sẽ chạm đến người khác! Người anh em, cậu có tương lai rộng mở, sao không gửi đi nhỉ?”
“Tôi…vẫn chưa quyết định.”
“Đồ ngốc, nói cho cậu biết, thứ này nhất định sẽ chạm đến người kia! Cậu không tin cũng được! Chỉ là, tờ giấy của cậu hình như quá…quá cổ rồi đó!”
“Tôi chỉ có…”
“Không sao, tôi có! Cậu nhớ nhé, lúc nào cũng phải mang theo giấy viết thư! Phải thanh nhã, đừng quá quê mùa! Như tờ của tôi này…” Lương Tử Quân rút ra tờ giấy của mình, màu xanh trời, nền là biển. Lương Tử Quân nói tờ giấy này không cần viết gì, chỉ gửi một tờ thôi cũng đủ chắc chắn thành công.
Lâm Vũ Tường biết ơn đến mức không nói nên lời, nên chỉ biết im lặng, không nói lời cảm ơn. Cậu theo lời Lương Tử Quân chép lại một lượt. Chữ viết của Lâm Vũ Tường giống như đứa trẻ bẩn thỉu, bình thường chẳng có gì đặc biệt, nhưng sau khi được lau chùi một chút nó lại trở nên chỉnh tề. Những nét chữ trước đây còn ẻo lả và có vẻ ngủ gật giờ đây đã được giao một nhiệm vụ quan trọng, giống như những người lính Mỹ đang phấn khích trước viễn cảnh chiến tranh.
Lâm Vũ Tường thấy chữ của mình đã quét đi cái vẻ ủ rũ, cũng vừa lòng lắm. Chép xong một lượt, nghĩ tới “chữ khỏa thân” của La Thiên Thành, cũng thấy bình thường thôi!
Lương Tử Quân xem xong, lại khen chữ của Lâm Vũ Tường có dáng người hẳn hoi. Rồi bỗng nhiên xé tờ giấy ra làm hai. Lâm Vũ Tường cứu không kịp, tưởng rằng Lương Tử Quân ghen tị, đành bất lực nói: “Cậu…cậu như vậy là…”
Lương Tử Quân lại lấy băng dính trong suốt ra, cẩn thận dán lại thư, nói: “Để tôi dạy cậu, làm như thế này, cô gái có thể nhận ra cậu đã suy nghĩ kỹ càng, xé thư rồi lại dán gửi đi, chứ không phải bốc đồng yêu đương với bất kỳ cô gái nào cậu gặp. Như vậy sẽ thể hiện tình cảm sâu sắc, mâu thuẫn nội tâm và tính cách chín chắn, hiểu không?”
Lâm Vũ Tường ngưỡng mộ đến mức lại không nói nên lời. Cậu bỏ thư vào phong bì, sợ lộ bí mật nên không ghi tên.
Tối hôm đó, lớp học kết thúc lúc tám giờ. Lương Tử Quân rủ Lâm Vũ Tường đến vũ trường. Vũ Tường mù khiêu vũ, không dám để lộ sự kém cỏi của mình bèn bịa ra một lời từ chối, rồi trốn vào góc phố viết địa chỉ và dán tem, nhân lúc dũng khí đang trỗi dậy phải gửi đi đã, chuyện ngày mai để ngày mai tính.
Đêm hôm đó không nằm mơ, giấc ngủ êm đềm như đang trôi trên Thái Bình Dương, vùng biển được Magellan đặt tên. Cậu cập bến đúng vào giờ sáng sớm, giấc ngủ thoải mái đến mức không vướng bận gì, chuyện đêm qua dường như trở nên mờ ảo và không thực, như một giấc mơ.
Nhưng khi nhớ lại hoàn toàn, cậu kinh hãi đến toát mồ hôi lạnh, vỗ trán hối hận vì đã gửi bức thư. Trong giờ học, tâm trí cậu lang thang, chìm đắm trong nỗi lo lắng về số phận của bức thư. Cậu cho rằng dịch vụ bưu chính Trung Quốc không thể đi nhanh như vậy được, nhưng cậu đã đánh giá thấp điều đó. Trưa đó khi đến phòng bảo vệ, thấy thư của mình nằm thẳng tắp trong hòm thư của lớp Susan mà cậu lại không mở được, trong lòng sốt ruột, mắt trừng nhìn bức thư, cảm xúc lẫn lộn, đúng như biểu cảm khi thăm ai đó trong tù.
Tiếc rằng việc thăm tù là được phép, nhưng chỉ được nhìn lá thư cho đã mắt, muốn bảo lãnh hay cướp thư ra ngoài thì hoặc là phải chờ thời cơ, hoặc là hoàn toàn bất khả thi. Vũ Tường và bức thư bị ngăn cách bởi một khoảng cách không thể vượt qua, đau đớn không thể chịu đựng nổi.
Ăn xong trưa, cậu vội vã quay lại phòng bảo vệ thăm thư, thấy thư đã “chấp hành xong án phạt”, trước hòm thư trống trơn, cậu toát mồ hôi lạnh. Trong lòng cậu la lên: “Làm sao bây giờ, làm sao bây giờ!”
Cậu cúi đầu buồn bã đi đến cửa lớp Susan, ngay cả liếc nhìn một cái cũng không dám, đầu cúi gằm xuống như thể muốn chui hẳn vào lồng ngực. Trong mùa đông lạnh lẽo, cậu chỉ cảm thấy cơ thể nóng rực, da tê rần.
Buổi học buổi chiều trong lòng lại trở nên bình tĩnh, nghĩ rằng chuyện đã đến nước này, bản thân cũng hết cách. Giống như tội đã gây ra, muốn giết muốn chém là việc của quan toà, còn sứ mệnh của cậu đến đây là kết thúc.
Chiều hôm đó Vũ Tường và Susan không gặp nhau, cũng tốt, đỡ phiền phức. Đêm đó cậu ngủ rất ngon, mai lại là Chủ nhật, có thể nghỉ ngơi. Trong giá lạnh, điều vui nhất là ngủ nướng, Vũ Tường ngủ li bì đến gần trưa. Trong chăn không nghĩ gì, mệt đến mức gối dính đầy nước miếng, vừa tỉnh một chút, giống như anh trai mình, một câu thơ tuyệt đẹp hiện lên trong đầu: “Hỏi chàng có bao nhiêu nỗi sầu, y như một vũng nước miếng chảy về đông.” Tự tiêu khiển vài lần, rồi hồi tưởng câu “Một dòng nước xuân chảy về đông”, cậu chợt nảy ra ý tưởng, sao không đi dọc theo dòng sông dưới cầu Hoàng Hôn xem sẽ đi đến đâu.
Thiên thời, địa lợi, nhân hòa, cha Lâm đi thu thập tin tức, còn mẹ Lâm đi đâu thì ai cũng rõ. Chuẩn bị hành lý và thay giày thể thao. Đến bờ sông, mùi đất thơm ngát. Du đông không bằng du xuân, nơi gió xuân vuốt ve khuôn mặt. Gió mùa đông hoàn toàn không có nghĩa vụ phải vuốt ve khuôn mặt bạn, mục đích duy nhất của nó là đẩy bạn trở lại. Vũ Tường bỏ một xấp đề thi để đổi lấy chuyến dã ngoại, chỉ một giờ thôi, nhưng nhẹ nhõm hơn nhiều. Về nhà làm đề thi tiếp cũng hiệu quả hơn nhiều so với dùng thêm bao nhiêu thực phẩm bổ dưỡng.
Tiết học hôm thứ Hai cứ như trở về thế giới trần tục, đầu óc quay cuồng chỉ muốn ngủ. Thẩm Khê Nhi hớn hở bước vào, nói: “Lâm Vũ Tường, cậu đoán xem tớ mang gì đến cho cậu? Đoán xem!”
“Tớ không biết.”
“Đoán xem!” Thẩm Khê Nhi ra lệnh.
“Tớ không rảnh, tớ muốn ngủ!” Lâm Vũ Tường xua tay rồi cúi đầu xuống ngủ.
“Là thư của Susan!”
“Cái gì!” Lâm Vũ Tường kinh ngạc đến mức quên hẳn việc định ngủ vài giây trước.
“Không rảnh thì thôi, không đưa cậu nữa!”
“Đừng, tớ tỉnh rồi…” Vũ Tường vội nói.
“Cậu phải thành thật khai, cậu đã làm gì với bạn tớ, Susan vốn không có thói quen viết thư!”
Lâm Vũ Tường nghe xong, tự hào nói: “Đây là kỹ năng của tớ! Đưa thư cho tớ!”
“Không đưa, không đưa!”
Lâm Vũ Tường định lao tới giật lấy. Thẩm Khê Nhi trêu Vũ Tường một lúc, chán rồi ném lá thư xuống, nói: “Đừng hòng giở trò với cô ấy!”
“Tớ không, tớ chỉ là…” Lâm Vũ Tường cúi đầu định mở thư.
“Còn nói không cơ! Tớ đã kể với Susan của tớ rồi!” Thẩm Khê Nhi bĩu môi nói.
“Cái gì!” Lâm Vũ Tường lại kinh ngạc đến mức quên hẳn việc định mở thư vài giây trước.
“Nào, cậu nghe kỹ này, tớ nói với Susan là Lâm Vũ Tường cậu có ý định theo đuổi cô ấy!”
“Cậu sao có thể…sao có thể nói bậy vậy chứ!” Lâm Vũ Tường đỏ mặt, lại nhẹ giọng hỏi tiếp: “Vậy cô ấy nói gì?”
“Mười chữ!”
“Mười chữ ư?” Lâm Vũ Tường cuống cuồng cố gắng nghĩ ra một câu mười chữ trong đầu.
“Để tớ nói cho cậu biết nhé!”
“Cô ấy nói mười chữ gì?”
“Cậu đừng có nhảy lầu đó!”
“Không đâu không đâu, tớ lạc quan, vui vẻ, hoạt bát, tràn đầy mong đợi với cuộc sống mới, sao lại thế được!”
“Vậy… tớ nói cho cậu nhé!”
“Ừm.”
“Nghe này…đừng tự sát đó!”
“Cậu mau nói đi!”
“Cô ấy nói…cô ấy nói…”
“Cô ấy nói gì?”
“Cô ấy nói…” Thẩm Khê Nhi ho nhẹ một tiếng, hành hạ tinh thần và thể xác của Lâm Vũ Tường đủ rồi, nói: “Cô ấy nói… ‘không có cảm giác, chính là không có cảm giác.’”
Toàn thân Vũ Tường lạnh toát. Cú đả kích lần này quá lớn, không mười năm tám năm e là khó mà hồi phục được. Nhưng đã là Susan mở miệng gửi lời cho cậu, bất kể tốt hay xấu, thì cũng còn hơn là không có gì, giống như người đói đến cùng cực rồi, ngay cả đất sét cũng sẽ đem ra ăn.
“Cậu có phải rất buồn không? Muốn khóc thì cứ khóc đi!”
“Khóc cái đầu cậu ấy! Cô nói mấy lời đó thì liên quan gì đến tớ?”
“Ồ?” Chữ “ồ” này của Thẩm Khê Nhi nói ra vừa đúng chỗ vừa đầy ẩn ý, khiến Vũ Tường tự mặc cảm.
“Không có việc gì nữa, cậu đi làm việc của cậu đi!”
“Không, tớ phải trông chừng cậu, kẻo cậu lại tìm đường tự tử. Nếu cậu chết, tớ sẽ rất đau lòng…vì cậu còn nợ tớ một bữa ăn đấy!”
Lâm Vũ Tường sống chừng ấy năm, vậy mà giá trị lại tương đương một bữa ăn, liền tức giận nói: “Không liên quan gì đến cậu nữa.”
“Được rồi, cậu cứ yên tĩnh một mình đi! Nghĩ thoáng ra, cậu thậm chí còn chưa kịp xếp hàng nữa!” Thẩm Khê Nhi xoay người bước đi.
Lâm Vũ Tường cúi đầu mân mê lá thư, nghĩ rằng trong đó chắc chẳng có lời lẽ gì tốt đẹp, không nhẫn tâm làm mình buồn thêm lần nữa. Giáo viên chủ nhiệm bước vào lớp để phát thêm đề kiểm tra, làm Vũ Tường hoảng hốt nhét vội lá thư xuống dưới mông. Thầy chủ nhiệm này nổi tiếng với sở thích bóc thư. Mỗi khi thấy thư của học sinh thì giống như trẻ con nhìn thấy đồ chơi, không bóc ra thì không chịu yên.
Vài phút sau, thầy chủ nhiệm rời đi. Bức thư được sưởi ấm dưới mông đã chín được sáu bảy phần, chỉ cần thêm chút xì dầu cay và tương cà, là trở thành món bít tết nổi tiếng của những người chăn cừu Argentina, dùng nhiệt từ mông nướng ra.
Vũ Tường cuối cùng cũng quyết định mở món bò bít tết ra. Bên trong là một tờ giấy màu hồng có viết một số chữ, về mặt lý thuyết là đủ để từ chối ai đó nhưng không đủ để chấp nhận ai đó.
“Vũ Tường:
Mở thư vui nhé.
Nói thật, tớ không hiểu lá thư của cậu.
Đi cùng à? Tớ sẽ đi thi vào Đại học Thanh Hoa. Hy vọng bốn năm sau gặp cậu ở đó. Chúng ta sẽ nói mọi thứ tại Đại học Thanh Hoa.”
Vũ Tường kinh ngạc trước kế hoạch dài hạn của Susan. Lâm Vũ Tường vẫn chưa biết cuộc sống bốn ngày sau ra sao, nhưng bản đồ tương lai của Susan đã vạch đến bốn năm sau. Giấc mơ Thanh Hoa, xa vời khó với, nhưng khát vọng theo đuổi nó không thể lay chuyển. Giờ tốt nghiệp đã gần kề và hạn chót cũng đang đến gần, nếu không tăng cường nỗ lực ngay bây giờ thì còn chờ đến khi nào nữa?
Vào thứ Tư, Vũ Tường lại đến tòa nhà tráng lệ để học thêm môn văn, cậu vốn không định đi, chỉ là có việc cần hỏi Lương Tử Quân. Vị thầy dạy văn này nổi tiếng khắp vùng, nhưng đáng tiếc là ông lại mang một cái họ bị coi là dung tục và cấm kỵ đối với một học giả, họ Ngưu. Ông căm ghét đến mức bỏ họ này và tự lập, lấy tám bút danh để thỏa mãn sở thích, hòng cạnh tranh với kỷ lục chín bút danh của Đỗ Phủ ngày xưa. Ông từng cãi nhau với Mã Đức Bảo. Mã Đức Bảo không ghét bỏ họ “Mã” của mình, ông chưa bao giờ dùng bút danh, nói Ngưu Quýnh viết không hay thì lại mượn những tên “Đông Nhật”, “Nhất Ba”, “Hào Nguyệt” để che giấu. Ngưu Quýnh lúc đó cãi nhau với Mã Đức Bảo, cãi tới mức đánh nhau, hai người đánh nhau thật có tính bản năng động vật, Ngưu Quýnh thấp hơn Mã Đức Bảo nửa cái đầu, nên bất lợi về địa hình khi cãi. Nhưng Ngưu Quýnh học được kỹ thuật tiên tiến của Ortega ở World Cup dùng đầu chọi Van der Sar, ngay tại chỗ chọi làm Mã Đức Bảo rách môi, từ đó lật đổ thành ngữ “đầu bò không khớp miệng ngựa”. Ngưu Quýnh tuyên bố không nhận học trò của Mã Đức Bảo, nhưng cha Lâm lại là bạn thân của Ngưu Cường, nên Ngưu Quýnh mới chịu mềm lòng đồng ý.
Ngưu Quýnh là người rất hung dữ, đôi hàng lông mày như kiếm của ông dường như sinh ra chỉ để nổi giận. Lâm Vũ Tường kìm nén những lời muốn nói trong lòng, chăm chú nghe giảng. Ngưu Quýnh nói viết văn là áp dụng công thức, rất đơn giản, hôm nay sẽ giảng về tiểu luận. Rồi ông đưa ra vài ví dụ cho học sinh, không gì khác ngoài Marie Curie, Watt, Edison, và Trương Hải Địch. Gần đây học sinh thấy viết về Trương Hải Địch chán ngấy, nên tập trung về ba người đầu tiên. Chăm chỉ học tập thì có Einstein, người không sợ thất bại là Edison, người không ham danh lợi là Marie Curie, người quên ăn quên ngủ là Newton, thích giúp người là Lôi Phong, tận tụy là Từ Hổ, không sợ chết là Lưu Hồ Lan, tận tâm là Chu Ân Lai, v.v. Chính những ví dụ cố định này đã rèn luyện ra nhiều cao thủ viết văn trong các cuộc thi ở Thượng Hải cũng như cả nước. Điều đó càng cho thấy sức mạnh của văn học. Một người, dù làm nghiên cứu khoa học hay theo con đường chính trị, thực ra đều đang cống hiến cho văn học.
Ngưu Quýnh yêu cầu học sinh ghi nhớ những ví dụ này, và phải vận dụng linh hoạt, rồi lồng thêm vài câu bình luận thì sẽ đạt điểm cao!
Học sinh lần đầu nghe được lời khai sáng như vậy. Trước đây chỉ nghe thầy cô nói rằng viết văn bây giờ để phát huy văn hóa Trung Quốc, giờ nếu theo công thức viết văn của thầy Ngưu, học sinh chỉ cần lo phát huy điểm số là được.
Một lúc sau, Lâm Vũ Tường mới dám trao đổi với Lương Tử Quân. Lâm Vũ Tường nói: “Tôi đã gửi thư rồi.”
“Kết quả thế nào?”
“Có thư hồi âm!”
“Tôi đã nói mà.”
Lâm Vũ Tường lắc thư của Susan ra đưa cho Lương Tử Quân, Lương Tử Quân khen: “Chữ đẹp quá!”
Lâm Vũ Tường cảm thấy rất dễ chịu trong lòng. Nếu người khác khen ngợi người mình yêu, anh ta sẽ cảm thấy tự hào về cô ấy, chỉ khi mọi chuyện tiến triển hơn nữa, anh ta mới cảm thấy tự ti vì cô ấy. Điều này cho thấy tình cảm của Lâm Vũ Tường dành cho Susan chỉ ở mức ngưỡng mộ và theo đuổi.
Lương Tử Quân đọc xong thư nói: “Tốt! Cậu em, cậu có hy vọng rồi!”
Lâm Vũ Tường hồi hộp nói: “Thật sao?”
Lương Tử Quân nói: “Nói thừa! Tất nhiên là thật rồi. Cậu có nhận ra cảm giác ngọt ngào trong thư không?”
“Không có!”
“Cậu đầu óc có bị rối không vậy! Rõ ràng thế mà còn không cảm nhận được à!” Lương Tử Quân nhạy cảm đến mức có thể đo được rung động vi mô.
“Cô ấy chỉ nói là…”
“Đồ ngốc! Cậu thật không hiểu gì cả! Nếu cô ấy muốn từ chối cậu, cô ấy đã từ chối rồi. Lý do cô ấy viết như vậy là vì cô ấy…câu thành ngữ gì nhỉ…’muốn thôi mà’…”
“Muốn nói nhưng lại thôi.”
“Đúng rồi, chính là cảm giác đó. Muốn nói mà ngại, muốn vứt đi lại tiếc. Cậu nhóc, cô ấy có ý với cậu đấy!” Lương Tử Quân vỗ vai Vũ Tường.
“Thật sao?” Vũ Tường cười, lòng tràn đầy hưng phấn, ước gì có không gian để cậu có thể cười lớn mà bày tỏ niềm vui.
Lương Tử Quân kiên nhẫn dạy dỗ, tiếp tục phân tích từng chữ từng câu: “Trong thư có nói đến Thanh Hoa. Thanh Hoa là nơi nào?”
Lâm Vũ Tường giả vờ ngây ngô đáp: “Thanh Hoa là một trường đại học.”
“Bao nhiêu tiền thì có thể vào được?” Lương Tử Quân thản nhiên hỏi. Trong đầu cậu ta chỉ nghĩ đến Đại học Sư phạm Hoa Đông, vì trong trường sư phạm toàn nữ sinh, nên cạnh tranh cũng không quá gay gắt. Hôm nay nghe đến Thanh Hoa, hứng thú nghiên cứu bỗng trỗi dậy, nên hỏi Lâm Vũ Tường. Lâm Vũ Tường bảo vệ số ít nữ sinh trong Thanh Hoa, nên dẫn Lương Tử Quân sang Đại học Sư phạm Bắc Kinh. Lương Tử Quân yên tâm có chỗ, chuyên tâm hướng dẫn Lâm Vũ Tường:
“Ý cô ấy không phải là tránh né, mà là muốn cậu học thật chăm chỉ và vào một trường tốt. Thật sâu sắc! Bước tiếp theo, cậu lại viết thư, và phải thể hiện mặt tài năng khác của cậu, cậu còn có sở trường gì nữa không?” Lương Tử Quân không may tưởng rằng Lâm Vũ Tường là người giấu tài, còn có tài năng chưa lộ. Lâm Vũ Tường đào xới ba thước đất cũng không thấy tài năng mới của mình. Lúc tìm sâu vào ký ức, kết quả làm cậu vui mừng, nói: “Tôi thông thạo cổ văn!”
“Tốt! Dù tôi không hiểu nhưng cậu cứ tỏ ra sâu sắc, viết thư cho cô ấy bằng cổ văn đi! À, bên ngoài có tin đồn gì về hai người không?”
“Không có.”
“Cậu cũng giấu quá đấy! Như vậy không tốt! Phải rầm rộ lên! Cậu cứ giả sử bên ngoài tin đồn nhiều lắm, cậu đi dẹp loạn, như vậy cô gái sẽ cảm động!” Lương Tử Quân lý luận liên tiếp.
“Như vậy được không?”
“Không vấn đề gì!”
“Vậy viết thế nào?”
“Viết như thế này, nói cậu và vị giáo sư ở cái gọi là Đại học Thanh…Hoa trao đổi thư từ nhiều, đã quen dùng cổ văn, cũng vừa khéo có thể…cái đó…”
“Ồ!” Lâm Vũ Tường thốt lên đầy thán phục. Chỉ tiếc rằng cậu không bằng được sinh viên khoa Văn học Trung Quốc trong việc chơi với cổ văn, hơn nữa viết cổ văn không dễ, thường viết một hồi là lại phả ra mùi hiện đại, ngay cả những từ mới mẻ như “hẹn hò”, “quán oxy” cũng ló ra. Ngưu Quýnh vừa yêu cầu học sinh thử viết một bài tiểu luận, Lâm Vũ Tường hỏi mượn một cuốn từ điển Hán cổ. Ngưu Quýnh không mang từ điển theo người, nhưng cậu thấy vài cuốn trong tủ sách gỗ gụ ở phòng tiếp tân liền vui mừng chạy tới. Cuốn từ điển vốn là sách tham khảo, may mắn được lãnh đạo cơ quan rất nâng niu, ngày thường hiếm khi đụng vào, nên những trang sách lật lên cứng như tấm lòng của lãnh đạo.
Nhờ sự trợ giúp đỡ của từ điển, các từ ngữ lại trôi chảy, không hẳn là trôi chảy, nhiều lắm cũng chỉ coi như tạm được. Lâm Vũ Tường tra đi tra lại chữ nghĩa cả nửa ngày, cuối cùng cũng phác thảo xong một thiên “mỹ văn”:
“Susan:
Đã nhận được thư hồi đáp.
Gần đây lời đồn nổi lên dồn dập, những lời ấy thật quá đáng, ta không thể dập tắt được. Xin nàng lượng thứ. Là ai đặt điều, ta muốn điều tra cho rõ.
Chỉ là cần thời gian.
Trước đây ta vẫn quen thư từ với các giáo sư khoa Hán văn của nhiều trường đại học, nên quen dùng cổ văn, nay đã khó sửa lại. Đọc vào có phần tối nghĩa, nặng mùi sáo ngữ, xin nàng lại lượng thứ.
Ta viết cổ văn cũng chẳng phải ý định ban đầu. Cổ văn tuy ngắn gọn nhưng lại truyền tải được ý nghĩa sâu xa, nêu việc gần mà thấy được nghĩa xa. Nhưng cái sự cổ hủ của cổ văn lại là điều ta chán ghét. Nàng biết chữ thì hãy cẩn thận mà dịch. Văn của ta thường không truyền tải được hết nghĩa, hoặc một chữ mà gợi ra mấy nghĩa. Nhưng cũng nhờ vậy mà có thể xem được mức độ lĩnh hội của nàng.”
Lúc đầu Lâm Vũ Tường còn muốn nịnh hót vài câu như “nàng trời sinh xinh đẹp, tâm lan huệ tính”, v.v. Nhưng giấy viết thư không đủ chỗ để chứa những lời tán tụng, đành phải tiếc nuối mà bỏ qua. Viết xong, cậu đưa cho Lương Tử Quân xem trước.
Lương Tử Quân nhìn thoáng qua thì hoàn toàn không hiểu, nhìn kỹ lại thì thấy sợ với 3 chữ trong đoạn đầu (ND: 3 chữ tiếng Trung có cách viết gần giống nhau), hỏi Lâm Vũ Tường sao ba chữ này lại giống nhau đến vậy.
Lâm Vũ Tường không biết giải thích thế nào về việc tra từ điển mà lại tình cờ gom ba chữ giống nhau ấy vào chung một chỗ. Cậu ấp úng bảo đừng để ý rồi cầm tờ giấy cuối cùng lên chép lại lá thư một lượt.
Lương Tử Quân muốn chính là cái cảm giác “không hiểu nổi”, nên đã đánh giá lá thư này rất cao. Anh ta nói rằng bức thư này đặc biệt quan trọng. Bức thứ nhất giống như rải mồi, mục đích là thu hút con cá lại gần. Còn bức thứ hai thì giống như đã móc câu xuống rồi…có câu được cá hay không, chính là quyết định ở bước này. Lâm Vũ Tường liền kẹp nhẹ bức thư “đức cao vọng trọng” đó vào trong sách.
Ngưu Quýnh buồn ngủ, ngáp liên tục. Ông ấy nhận xét qua loa một bài văn, giao thêm một đề bài rồi liền cho tan buổi học.
Đêm ấy bầu trời đầy sao thật đẹp, khiến lòng người cũng nhẹ nhàng muốn ngủ. Vũ Tường mang theo ba phần buồn ngủ, suýt nữa nhét bức thư vào ô gửi thư ngoại tỉnh. Giật mình tỉnh giấc thì nghĩ rằng việc tốt thường lắm trắc trở. Nhưng dù có trắc trở thế nào, cuối cùng vẫn là chuyện tốt. Nghĩ nghĩ vậy, cậu liền cười say sưa, để rải lại một chuỗi âm thanh lạc điệu trên con đường tối đen. Khi về đến nhà thì kiệt sức cả về thể chất lẫn tinh thần, cậu cũng chẳng kịp làm bài tập, ngã xuống giường là ngủ ngay.
Lâm Vũ Tường thật sự không muốn đi dự buổi sinh hoạt của câu lạc bộ văn học vào thứ Sáu. Mã Đức Bảo nhất quyết bắt cậu phải đi nên đành phải đi. Lên lớp, Mã Đức Bảo không giảng gì về thẩm mỹ, không giảng gì về văn học, không giảng gì về triết học, chỉ đứng trên bục cười khà khà.
Các hội viên thấy Mã Đức Bảo ngày nghiên cứu lịch sử, tối đọc kinh điển, cuối cùng cũng tu luyện tới mức giống hệt sự ngớ ngẩn của một nhà văn, nhưng họ không dám chúc mừng. Ngược lại, Mã Đức Bảo lại tự hào chúc mừng: “Chúc mừng mọi người! Nỗ lực của mọi người cuối cùng cũng có kết quả!”
Các hội viên trong câu lạc bộ đều kinh ngạc.
Mã Đức Bảo tự hào chống tay lên bục, nói: “Học kỳ trước, trường chúng ta được Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Trung Quốc ở Bắc Kinh mời tham gia, và đã viết một bản thảo để dự thi. Sau quá trình tuyển chọn nghiêm ngặt của các chuyên gia, hôm qua tôi đã nhận được thông báo và giấy chứng nhận.”
“Ồ!”
“Câu lạc bộ văn học của chúng ta thật may mắn. Tất nhiên, không phải hoàn toàn dựa vào may mắn. Rất vui mừng vì đã giành được một giải nhất toàn quốc!”
“Ồ!”
Mã Đức Bảo mở một tấm giấy khen ra, đặt lên bàn rồi bắt đầu vỗ tay và nói: “Hoan nghênh bạn Lâm Vũ Tường lên nhận giấy khen này!”
“Ồ!” Các thành viên trong câu lạc bộ đều quay đầu nhìn Lâm Vũ Tường. Mặt Lâm Vũ Tường đỏ bừng, đầu óc căng lên, quên hết cả vinh lẫn nhục, mang theo nụ cười cứng đờ bước lên bục nhận giấy khen. Khi ngồi lại vào chỗ, cậu dần tỉnh táo lại, trái tim bị niềm vui lấp đầy đến không còn một kẽ hở nào.
La Thiên Thành cứ nhất quyết phải gặm mất của Lâm Vũ Tường một phần niềm vui, lạnh nhạt nói: “E là cuộc thi này cũng chẳng có đẳng cấp cao gì đâu!” Trong lời nói, sự ghen tị đầy đến mức sắp tràn ra ngoài.
Nụ cười của Lâm Vũ Tường lập tức tắt hẳn, có thể thấy cú cắn này quá mạnh. Cậu nói: “Tôi không rõ, cậu đi hỏi ban giám khảo đi.”
“Không có tiếng tăm. Nhưng chắc là có rất nhiều tiền nhỉ.”
“Chuyện đó tôi không rõ.”
Mã Đức Bảo dường như nghe thấy hai người nói chuyện, liền giải thích: “Lần này, Lâm Vũ Tường giành được giải nhất toàn quốc, là một điều vô cùng vinh dự. Vì đây không phải là cuộc thi mang tính thương mại nên không có tiền thưởng. Nhưng điều quan trọng nhất là rất nhiều học giả, nhà văn nổi tiếng đã biết đến tên của Lâm Vũ Tường, điều này sẽ có ích rất lớn cho việc cậu ấy bước chân vào giới văn đàn sau này!”
Lâm Vũ Tường nghe mà mê mẩn. Nghĩ đến việc danh tiếng của mình đã vang tới tận Bắc Kinh, cậu không kiềm được niềm vui. Tiền, khi đặt trước danh tiếng, bỗng trở nên nhỏ bé. Danh lợi danh lợi, bao giờ cũng là danh đứng trước, lợi theo sau.
La Thiên Thành tuyên truyền với Thẩm Khê Nhi rằng cuộc thi này chỉ là hình thức. Thẩm Khê Nhi không nhận được giải, cùng với La Thiên Thành đều là những kẻ lạc loài, gật đầu tán thành.
Lâm Vũ Tường cẩn thận trải tấm giấy khen ra, thèm muốn nhìn nó cả mấy ngày liền, nhưng vì có bạn học xung quanh, nên chỉ liếc sơ qua rồi lại cuộn lại. Cậu cảm thấy bản thân trở nên thiêng liêng. Giải nhất toàn quốc, tức là người đứng đầu trong số học sinh trung học cả nước, giành được vị trí số một toàn quốc, ngoài những người ở các quốc gia nhỏ như Andorra hay Vatican thấy chẳng có gì quan trọng ra, người ở các nước khác đều không thể không hứng khởi. Đặc biệt là ở Trung Quốc, một đất nước đông người đến mức đáng sợ, niềm vui giành chức vô địch toàn quốc đủ để tận hưởng cả đời.
Lâm Vũ Tường nhận ra điều này, đầu óc nóng hổi đến mức không thể tập trung nghe bài, hai gò má nóng rực khiến mùa đông cũng phải lùi bước. Sau giờ học, Lâm Vũ Tường vội vàng về nhà, suốt quãng đường có thể nói là chạy như bay, bỏ lại mọi bụi mờ phía sau.
Cùng lúc đó, Mã Đức Bảo cũng đang lên kế hoạch tuyên truyền cho toàn trường. Kể từ khi câu lạc bộ văn học được thành lập, đây là lần duy nhất giành giải quốc gia, nên buổi lễ tuyên dương trên loa chắc chắn phải có. Niềm đam mê văn học học sinh của Mã Đức Bảo đã tăng vọt, thấy cần mở rộng câu lạc bộ văn học, bản dự thảo kế hoạch đã làm được một nửa. Vũ Tường sắp rời đi, như vậy câu lạc bộ sẽ thiếu người kế cận, những đệ nhỏ, muội nhỏ kém một khóa, dù kinh nghiệm còn nông, nhưng trong các bài văn của họ, chuyện tình yêu đều xuất hiện đúng hẹn mỗi tuần, bất chấp mưa gió. Mã Đức Bảo đếm sơ qua, trong một cuốn tập luyện viết của một nữ học sinh năm hai trung học cơ sở, từng xuất hiện hơn hai mươi hoàng tử cưỡi ngựa trắng. Mã Đức Bảo cảm thấy tự ti vì số phụ nữ ông từng gặp còn ít hơn số đàn ông mà đứa trẻ đó đã hẹn hò, khiến ông suy ngẫm rất nhiều.
Nhưng xem nhiều loại văn chương này cũng thành quen. Những bài văn của nữ sinh trung học những năm 90 dường như là một chuồng ngựa, toàn hoàng tử cưỡi ngựa trắng và những mối tình thơ ngây không dứt. Mã Đức Bảo thấy không ưa nổi loại văn chương này, bất cứ bài văn nào có nam nữ yêu đương đều bị “xử tử” ngay lập tức, nên nhiều bài bị loại bỏ. Vì vậy, đối với Mã Đức Bảo, quan trọng nhất là bổ sung những cây bút còn ngây thơ trong tình cảm. Theo lời ông, đó là khát khao tìm hiền tài, mà còn là cơn khát khao đặc biệt.
Lâm Vũ Tường không nghĩ tới chuyện sau này của câu lạc bộ văn học, chỉ lo vội về nhà báo cho cha mẹ biết. Mẹ cậu nghe xong vui đến mức suýt quên cả đi chơi mạt chược. Bà dán tấm giấy khen lên tường, vừa nhìn vừa cười không thành tiếng. Thật ra mà nói, danh tiếng cũng chẳng khác gì khỉ là mấy, nhiệm vụ của chúng đều là đem lại niềm vui, khiến người khác thích thú. “Khỉ” lần này của Lâm Vũ Tường to hơn một chút, khỉ to làm trò ngộ nghĩnh thường gây hiệu quả hơn khỉ nhỏ. Mẹ cậu vui sướng khôn xiết, gọi điện thông báo cho bạn chơi bạc rằng con trai bà được giải, các bạn may mắn vẫn còn chút tính người, ai cũng đồng thanh khen mẹ cậu thật may mắn, nuôi được một cậu con trai nhà văn.
Lúc đó, cha của nhà văn cũng tan làm về đến nhà. Phản ứng của cha Lâm khá bình thản. Một người thường xuyên nhận giải thì biết giấy khen là thứ ít giá trị nhất, không ăn được, cũng không tiêu được. Về mặt giá trị thì không bằng tiền thưởng, về mặt công dụng thì không bằng quà tặng.
Nhưng trên mặt cha Lâm vẫn ánh lên niềm vui, tấm giấy khen giải nhất toàn quốc là điều đáng tự hào, giống như những cuốn sách trong bộ sưu tập của gia đình họ Lâm.
Trái tim Lâm Vũ Tường như trải qua một trận động đất, trận lớn đã qua, nhưng dư chấn vẫn liên tục. Mỗi khi nhớ lại, cơ thể luôn cảm thấy nóng bức.
Ngày hôm sau đến trường, sợ thiên hạ không biết, cậu gặp ai cũng khoe đã giành giải nhất toàn quốc. Đây chính là sự non nớt của người mới nhận giải, tưởng rằng vui thì phải chia sẻ cùng mọi người. Ai ngờ, dù niềm vui của bạn là niềm vui nổi tiếng hay niềm vui giàu có, bạn bè chỉ muốn được chia sẻ động lực khiến bạn vui, chẳng hạn như danh tiếng hay tiền bạc. Niềm vui cuối cùng vẫn phải tự mình tận hưởng. Bạn bè không thừa hưởng được danh tiếng của Vũ Tường, không nhận được tiền của Vũ Tường, tất nhiên sẽ không cảm nhận được niềm vui của cậu, ngược lại còn sinh ra phiền muộn, chửi thầm Lâm Vũ Tường ích kỷ, nhận giải mà không đãi bạn.