Văn học giống như một mỹ nữ, thường khiến người ta cảm thấy ngưỡng mộ và khao khát ngay từ cái nhìn đầu tiên. Người làm văn học thì giống như ông chồng của mỹ nữ ấy, đã có được trong tay rồi thì không cần phải khổ cực theo đuổi nữa, thậm chí còn có thể tàn phá, chà đạp. Khi chưa vào câu lạc bộ văn học, mỗi lần nghe người ta nói văn học cao thượng biết bao nhiêu, Vũ Tường đều tin như vậy. Nhưng sau khi vào rồi, cậu dần dần hiểu ra rằng chữ “làm” trong “làm văn học” nên giải thích là “làm bậy, phá hoại”, thích hợp hơn một chút thì có thể gọi là “chôn văn học” hoặc “hủy văn học”. Những “nhà văn học đường” nổi danh ở trường Nam Tam Trung chỉ có hư danh, họ chẳng coi văn học như “nhà” để yêu quý chăm sóc, mà chỉ coi văn học như ký túc xá để trú chân. Còn những “thi nhân học đường” thì thầm sốt ruột, không cam tâm làm “nhân” (người), chỉ hận không thể tự xưng thành “thi gia”.
Vũ Tường ở câu lạc bộ văn học lâu rồi, thật ra cũng chưa lâu, mới hai tuần, đã cảm thấy trong câu lạc bộ văn học có mâu thuẫn rất lớn. Người viết tản văn xem thường tiểu thuyết, còn người viết tiểu thuyết thì khinh thường thơ ca. Thật ra các hình thức văn học này cũng không phải là trung tâm mâu thuẫn, chủ yếu là ai cũng tự cho rằng tài năng của mình trấn áp quần hùng, ai cũng muốn làm chủ nhiệm câu lạc bộ, nhưng ngoài mặt lại khiêm tốn bảo “không được, không được”. Những người làm thơ là kiêu ngạo nhất, chịu đủ ánh mắt xem thường, bèn biến bi phẫn thành sức mạnh, ai nấy đều hô hào phải xuất bản riêng một tập thơ, chỉ còn thiếu điều lập đảng riêng mà thôi.
Chủ nhiệm đương nhiệm là người yếu đuối, hơn nữa thì tản văn, tiểu thuyết, và thơ đều viết, nhất thời cũng không rõ bản thân rốt cuộc đứng về phía nào. Không có bản lĩnh can ngăn như Trương Tuấn thời xưa, chỉ mong có thể trích câu này ra: “Thiên hạ văn nhân là một nhà, anh sao chép tôi, tôi sao chép hắn”, để tuyên bố mọi hội viên phải đoàn kết.
Câu lạc bộ văn học họp thường kỳ vào mỗi thứ Tư hàng tuần, những buổi gần đây trông như cuộc nội chiến. Theo quy định, cuộc họp thứ Tư phải thảo luận tập thể rồi chốt bản thảo, sau đó dàn trang, để bản mẫu của “Sơ Lộ” được ra lò. Kết quả là phía làm thơ nhìn thấy thì bất bình, nói trang dành cho họ quá ít, phía viết tiểu thuyết đến sau mà còn ầm ĩ hơn cả nhà thơ, bảo rằng mỗi kỳ “Sơ Lộ” chỉ có thể đăng một truyện, không đáp ứng được nhu cầu người đọc. Cái gọi là “người đọc” đó cũng chỉ còn lại vài người bọn họ. Những kẻ ấy chưa luyện thành kinh nghiệm của tiểu thuyết gia, mà đã kế thừa được sự nói năng lắm lời của tiểu thuyết gia, truyện thì viết như “đại thoại”, hại “Sơ Lộ” mỗi lần phải cắt một mảng đất lớn để đăng những dòng chữ đó. Người viết tản văn là đông nhất, nhưng lòng người lại tản mác như chính bài của họ, gây chuyện cũng gây chẳng ra khí thế gì. Những nhà tản văn này viết bài như làm món thập cẩm, vật liệu vốn đang yên ổn thì cứ phải tháo ra đổi lại thứ tự một lượt rồi ráp lại, để cho có “mùi vị tản văn”.
Lâm Vũ Tường cô đơn một mình, không tranh giành với đời, ngồi yên nhìn cuộc nội chiến. Các nhà thơ là những kẻ đầu tiên mở rộng phạm vi đấu tranh đến cả các thi nhân đời trước. Từ Chí Ma là người xui xẻo nhất, mũi ông quá to, trở thành mục tiêu dễ thấy, bị lôi ra làm vũ khí: “Mọi người đều đọc qua “Tái biệt Khang Kiều”, người thích nó cũng nhiều, đó mới là ý cảnh của thơ! Thơ trong văn học là… thể loại quan trọng nhất…” Người đó vốn định thêm chữ “một trong số” để chừa đường lui, nhưng nói đến khi căm phẫn trào dâng, “một trong số” cũng nuốt luôn. “Cậu nói quá rồi đó.” Nhà tiểu thuyết đứng dậy. Chỉ một câu chậm rãi thôi mà khí thế sắc bén của nhà thơ đã bị mài đi hơn phân nửa. Người đó cảm thấy cần phải mài nốt phần còn lại, bèn ngước mắt nhìn trời và nói: “Ếch ngồi đáy giếng.”
Người đó lại phạm một sai lầm lớn. Thật ra, cách mài mòn nhuệ khí của người khác là khi đối phương đang chửi đến mức sống dở chết dở, bạn chỉ cần chống lại bằng một câu không liên quan đến chủ đề nhưng lại khiến đối phương vừa đau vừa ngứa. Còn câu “ếch ngồi đáy giếng” lại kích lên ý chí chiến đấu của đám nhà thơ, các nhà thơ nhỏ liệt kê từng đại thi nhân một, mà toàn là thi nhân cổ đại. Tiểu thuyết thì mãi đến triều Tống mới phát triển, về niên đại thì chịu thiệt một chút. Hơn nữa, qua đến thời Minh – Thanh, tiểu thuyết giống như bị rơi xuống hầm phân, bị nhuốm một lớp màu vàng, tự thấy lý lẽ không vững nên không dám đem ra so sánh với người ta, chỉ còn biết lấy thơ mà bình thơ: “Thơ của các cậu rõ ràng chỉ là chắp nhặt tính từ mà dựng lên.” Câu này vốn là để mắng nhà thơ, không ngờ người viết tản văn lại chột dạ như kẻ trộm, đáp trả: “Tiểu thuyết ấy mà, là thứ bình dân, mà đã là bình dân thì không thể cao nhã được!”
Tiểu thuyết gia nhất thời không tìm được một thứ gì vừa bình dân lại vừa cao nhã để phản bác lại, nên đành im lặng không biết nói gì.
Không biết từ góc nào vang lên một câu: “Nhục Bồ Đoàn”, cả phòng bật cười. Rõ ràng những người nên cười đã cười xong rồi, vậy mà vẫn còn cố cười to hơn nữa một cách giả tạo, nhằm đánh sập phòng tuyến tâm lý của hội viết tiểu thuyết. Nào ngờ, da mặt của tiểu thuyết gia dày như công sự phòng thủ, mấy tiếng cười cỏn con ấy chẳng khác gì đạn chì bắn vào xe tăng. Một người có số truyện đăng nhiều nhất đập bàn đứng dậy, viện dẫn “Nhục Bồ Đoàn” làm niềm tự hào: “Cuốn sách này thì sao? Nó là ốc đảo trong hoang mạc tinh thần của con người! Là sự đột phá đối với truyền thống!” Nói rồi ngồi xuống vẻ đắc ý. Cái gọi là “đột phá đối với truyền thống” của cậu ta phải hiểu thế này, truyền thống thời đó chính là viết sách khiêu dâm, mà “Nhục Bồ Đoàn” lại dâm đến mức lấn át cả những sách dâm khác, vì thế mà gọi là “đột phá đối với truyền thống”.
Ba phe cứ vướng mãi ở đề tài cấm sách thời Minh – Thanh, dây dưa mãi không chịu rời khỏi đề tài này. Ngay cả các nữ sinh cũng không chịu thua kém, đều dấn thân vào vùng đất xa lạ ấy.
Chủ nhiệm câu lạc bộ sốt ruột, cuối cùng cũng nhớ ra mình có quyền ngăn cản liền khẽ nói: “Được rồi, mọi người đừng ầm ĩ nữa.” Việc chủ nhiệm to gan dám nói như vậy thật hiếm thấy, các hội viên cũng lập tức dừng lại, chờ nghe cao kiến của chủ nhiệm. Sở trường của chủ nhiệm là diễn đạt trên giấy, chức năng cái miệng dường như thoái hóa chỉ còn để ăn, nên chẳng mấy khi nói. Chỉ bốn chữ thốt ra: “Làm như cũ đi.” Các hội viên vô cùng phẫn uất, nghĩ đến cuộc tranh luận hừng hực khí thế lúc nãy cuối cùng lại đổi lấy một kết quả vô nghĩa, ai nấy đều tiếc nuối cho những lời mình đã nói.
Cuối cùng, cách biên tập trên tập san “Sơ Lộ” là như thế này: ba bài tản văn, một tiểu thuyết và một bài thơ. Người giữ vai trò chủ bút phụ trách tản văn là người cổ vũ “văn học dị loại”, lần này cậu ta nói sẽ dùng con mắt độc đáo của mình để quan sát sự trống rỗng tinh thần của nhân thế, lấy một kẻ thích rình trộm làm tuyến chính, đặt tên là “A Snoope Man”. Tác phẩm “Trong gió” của chủ nhiệm vì chính chủ nhiệm tự thấy tâm đắc vô cùng nên cũng được chọn. Còn nhà tản văn theo lối cổ điển giỏi tu từ thì vô cùng xui xẻo, kiệt tác của cậu ta không được chọn. Không phải do viết không hay, mà do nhân viên đánh máy chê những chữ cậu ta dùng quá khó gõ, đại tản văn gia kiêu ngạo không chịu sửa một chữ, cho rằng sửa một chữ tức là không tôn trọng nghệ thuật và phong cách này, thà để tác phẩm chết già còn hơn chịu uốn mình để xuất hiện.
Tiểu thuyết xưa nay luôn là địa bàn phải tranh giành, người ủng hộ “Nhục Bồ Đoàn” lúc nãy đã đánh bại quần hùng. Một tiểu thuyết của cậu ta miêu tả chuyện nhường chỗ trên xe, xét trong số các truyện cùng loại thì coi như khá mới mẻ, nên vinh dự được chọn đăng. Trên mục tiểu thuyết có kèm một câu: “Nơi đây sẽ tạo nên những O. Henry của chúng ta.” Vũ Tường thấy buồn cho O. Henry, “Bách khoa toàn thư hài hước của nước Mỹ” này chắc đã gây ra nghiệp chướng gì đó, đến chết cũng không yên, bị bắt đến trường Nam Tam Trung để chuộc tội.
Các nhà thơ vì không được xuất bản tuyển tập thơ nên bèn chơi khăm. Thơ hiện đại còn lợi hại hơn cả giun đất, một câu mà cắt thành mấy khúc cũng chẳng sao, thế là họ cố ý bẻ gãy thơ. Theo như lời kể, việc tháo rời mọi thứ ra là “một trong những kỹ xảo cao nhất của văn minh phương Tây” (Torlé viết trong lời tựa cuốn “Từ hỗn độn đến có trật tự” của Prigogine), các nhà thơ vận dụng thuần thục thứ “kỹ xảo cao nhất” ấy, thơ họ viết thành ra như thế này:
Đêm
tản ra
trong
giấc ngủ
của tôi
Gió
từ nơi nào
cơn gió
mang đi
giấc mơ của tôi
Nói cho
tôi biết
là trái tim tôi
đang trôi
trên bầu trời đêm
Hay là
bầu trời đêm
tan vào
trong
trái tim tôi
Đêm
sâu rồi
lặng rồi
tim
cũng lặng rồi
Hương tóc
của ai
chiếm cứ
lâu
lâu
lâu
lâu
trong
giấc mơ của tôi
rơi
trong
trái tim tôi.
Chủ nhiệm câu lạc bộ xem xong thì kinh ngạc, hỏi nhà thơ có thể ghép các câu lại không. Nhà thơ lắc đầu nói rằng một khi nối câu lại thì sẽ làm tổn hại đến nhịp điệu của thơ, còn nói rằng thế này vẫn chưa là gì, giọng điệu hận không thể tách từng nét của chữ ra. Chủ nhiệm đếm thử, chỉ có mấy chục chữ thôi, nhưng khi dàn trang thì ít nhất phải một trang lớn, nên không biết phải làm thế nào.
Nhà thơ nói: “Thơ bây giờ đều như vậy, hay là in riêng một tập rồi phát ra, thiết thực hơn.”
Chủ nhiệm vội vàng nói: “Không được!” Bởi vì chi phí của tờ “Sơ Lộ” do câu lạc bộ văn học xuất bản vốn đã phải trừ vào quỹ lớp. Nếu lại xuất bản thêm một tập thơ nữa, học sinh cầm trên tay, nộp tiền rồi phát hiện chỉ là một xấp giấy lộn, không khéo còn khiến câu lạc bộ văn học bị đập phá. Lâm Vũ Tường tiện tay cầm lấy bài thơ xem, bật cười một tiếng, quăng tờ giấy đi, lạnh giọng nói: “Thứ này mà cũng gọi là thơ sao?”
Nhà thơ giận dữ nói: “Không ra gì thì sao nào?”
Lâm Vũ Tường thở dài một cách xót xa, nói: “Giấy tốt thế này, lại bị lãng phí.”
Nhà thơ cực kỳ tức giận, nhưng mang trên mình danh phận một nhà thơ, không tiện đánh người, liền giật lấy báu vật của mình, nói: “Cậu biết viết không?”
Khi hai người sắp quyết đấu, chủ nhiệm lo lắng nói: “Được rồi, dùng bài thơ của cậu đi.” Nhà thơ vừa nghe, lập tức quên hết oán hận với Lâm Vũ Tường, kéo tay chủ tịch: “Xin nhờ cậu đấy.” Linh hồn nhà thơ mong manh, nhưng thể xác của nhà thơ chắc khỏe, trong cái bắt tay cũng mang theo hận thù. Chủ nhiệm vốn yếu ớt, thân hình mảnh khảnh, không chịu nổi sự “đối thoại thể xác” mạnh mẽ, chỉ cười khổ nói: “Được rồi, được rồi.”
Do đó việc sắp xếp bố cục lại trở thành vấn đề. Lâm Vũ Tường để đứng vững ở câu lạc bộ văn học, nói với chủ nhiệm: “Tôi sẽ sắp xếp bố cục.” Điều này làm cả chủ nhiệm lẫn Lâm Vũ Tường đều ngạc nhiên. Chủ nhiệm đơn giản, ngây thơ như sinh vật đơn bào nguyên thủy, không lo cho vị trí của mình, nói: “Tốt! Không ngờ! Cậu giỏi quá. Cậu còn giỏi hơn tôi!” Thèm khát được nhường chỗ ngay cho Lâm Vũ Tường.
Lâm Vũ Tường cũng lo lắng, nói thật là cậu cũng không biết bố cục, chỉ là từng nghe cha cậu nhắc qua vài chi tiết lẻ tẻ, chép lại chút ít, qua thời gian, những mảnh vụn ấy cũng mờ mịt như các tòa nhà trong sương mù London, mơ hồ không rõ. Chủ nhiệm trân trọng tài năng, hỏi: “Vậy bài thơ này xử lý thế nào?”
Lâm Vũ Tường nhìn quanh, chắc chắn nhà thơ không có mặt, sợ có “tai thứ năm”, nhẹ giọng nói: “Xóa đi.”
“Xóa đoạn nào?”
“Xóa toàn bộ!”
Chủ nhiệm xua tay, nói tuyệt đối không được.
Lâm Vũ Tường vỗ nhẹ tờ bản thảo bằng mu bàn tay, không thể thắng khi đối mặt, liền dùng “niềm vui mỉa mai sau lưng”: “Bài thơ này… bỏ đi, không thể gọi là thơ, cũ rích sáo mòn, tôi đọc quá nhiều rồi. Cấp độ quá thấp.”
Chủ nhiệm nhượng bộ nói: “Có thể dùng dấu “/” mà…” vừa nói vừa vung tay lên không trung. Lâm Vũ Tường ngắt lời chủ nhiệm, lại vỗ tay lên tờ bản thảo, cảm thấy một luồng thỏa mãn dâng trào, nghiêm nghị nói: “Cách này càng không được, bố cục kiểu này xấu, sẽ khiến toàn bộ trang báo mất cân đối!”. Cậu thầm khen mình nhớ dai, những gì nghe hai năm trước, đến lúc quan trọng vẫn dùng được một cách thành thạo.
Chủ nhiệm sợ nhà thơ, lại dò hỏi: “Vậy có thể sửa, sửa một chút không?”
Lâm Vũ Tường buông tay khỏi tờ bản thảo, không vỗ nữa, lắc đầu, như thể bài thơ này đã mắc bệnh nan y, sinh mệnh sắp hết, không thể cứu chữa.
Chủ nhiệm vội nói: “Vậy làm sao bây giờ, báo sắp xuất bản rồi.”
Lâm Vũ Tường đưa kết tinh trí tuệ của mình cho chủ nhiệm, nói: “Tôi nghĩ cách tốt nhất là thay một bài khác, hoặc không dùng thơ, dùng…”
Chủ nhiệm nối lời: “Thơ tản văn, tản văn thì trau chuốt, thơ thì kín đáo, dùng thơ tản văn đi!”
Ánh mắt của Lâm Vũ Tường lộ vẻ khinh bỉ, thơ tản văn là thứ khiến cậu khó chịu nhất, cậu cho rằng bất cứ ai viết thơ tản văn đều chắc chắn đã thất bại ở phần tản văn, cũng thất bại cả phần thơ, và thơ tản văn chỉ có thể là sự kết hợp hai điểm yếu đó thành một điểm “mạnh”. Tất nhiên, chất lượng của thơ tản văn cũng dễ đoán. Cậu hết sức phản đối: “Không được, hay là nên mở một chuyên mục mới, viết mấy bài phê bình… phê bình văn học?”
Chủ nhiệm suy nghĩ khá lâu, cuối cùng thông suốt, nói: “Cũng được, chỉ sợ mấy người kia…”
“Không sao đâu, họ cũng biết lý lẽ mà.” Nói xong, cậu nở một nụ cười kiểu Powell, hỏi: “Ai sẽ viết đây?” Cậu nhìn trần nhà trầm ngâm, như thể những người có thể viết đều đã lên trời hết. Thế gian chỉ còn lại một mình Lâm Vũ Tường.
Chủ nhiệm khiêm tốn nói: “Tôi viết không tốt. Hơn nữa, ngày mai chúng ta phải gửi đi in rồi, sợ không kịp thời gian, cậu viết được chứ?”
Một giọng nói trong lòng Lâm Vũ Tường muốn bật ra: “Tôi đã chờ câu này từ lâu rồi!” Cậu giả vờ vẻ ngạc nhiên trên mặt, rồi lại thêm một nỗi buồn vô tận, nói: “Tôi đại khái thì…”
Chủ nhiệm vội vã ngăn cản câu sau, nói: “Thử rồi mới biết, đây là một chuyên mục rất mới, cậu phải viết ngay, tốt nhất là chiều nay nộp cho tôi. Đã nói rồi đấy!” Nói xong, chủ nhiệm tỏ vẻ cực kỳ hãnh diện, nghĩ rằng đã chặn hết con đường của Lâm Vũ Tường, khiến cậu chỉ còn cách thuận theo.
Lâm Vũ Tường vẻ mặt đầy băn khoăn, nói: “Tôi… sẽ thử xem sao.” Rồi cậu chào từ biệt, bước đi trên đường nhẹ nhõm khác thường, đầy lòng tôn trọng bản thân. Cậu nghĩ rằng mới chỉ hơn một tháng ở trường Nam Tam Trung, cuộc sống tập thể hơn một tháng ấy đã rèn luyện mình trở nên xảo quyệt đến thế. Cậu lại nghĩ đến quyền lực của Tiền Vinh cũng chẳng được bao lâu nữa, như thể thấy danh tiếng của mình đang tăng dần, cười toe toét.
Trong lớp, Tiền Vinh đang nói cười với Diêu Thư Cầm. Trên tay Tiền Vinh cầm cuốn “Logic hình thức” chỉ cho Diêu Thư Cầm xem, Vũ Tường trong lòng đầy nghi hoặc, một cuốn sách nghiêm túc như vậy mà cũng có thể khiến hai người cười được sao? Cậu tiến lại gần nhìn, thấy hai người đang đọc các câu mắc lỗi “so sánh máy móc” trong phần “Các câu sai logic”, cậu phục họ thật là giỏi, đúng là có tinh thần biết tìm vui trong gian khổ như quân đội ta vậy. Hai cái đầu kề sát nhau, như thể muốn gắn chặt vào nhau. Ngọn lửa tình yêu đã nóng đến mức đạt cảnh giới như vợ chồng Hàn Bằng trong “Sưu Thần Ký” và cây liền cành trong “Trường Hận Ca”.
Khi con người gặp chuyện vui thì suy nghĩ cũng nhiều hơn bình thường. Thấy Tiền Vinh và Diêu Thư Cầm yêu nhau khăng khít không kẽ hở, Vũ Tường lại nhớ đến Susan thuần khiết gấp trăm lần Diêu Thư Cầm. Vừa nghĩ đến cô ấy, lòng cậu liền tràn đầy sầu muộn, tiếc nuối đến mức muốn khóc. Ấm ức nhất chính là mối quan hệ của và Susan vừa mới có chút tiến triển thì đã phải chia xa mỗi người một nơi. Giống như châm một điếu thuốc, vừa mới hút được một hơi đã tắt, trong miệng chỉ còn chút dư vị. Rồi lại thấy ví dụ ấy cũng chưa đúng, bởi thực ra cậu còn chưa được “hút một hơi”, chỉ mới khẽ vén tấm màn bí ẩn của Susan, mới chỉ “no mắt” chứ chưa được “no miệng”, y hệt như vất vả bóc hết lớp lá ngoài của bánh ú, còn đang ngửi thấy mùi thơm, nóng ruột muốn cắn một miếng đầu tiên, thì chiếc bánh lại “phụp” rơi xuống đất. Cậu thở dài, quay mặt khỏi đôi Tiền – Diêu để khỏi chạm cảnh mà buồn, trong lòng chỉ còn một ý nghĩ, phải nổi như mặt trời ban trưa ở trường Nam Tam Trung. Tất nhiên, muốn một bước mà rực sáng ngay thì khó, mặt trời cũng là từng tấc một bò từ chân trời lên đỉnh đầu, cậu cũng phải từng bước mà tiến. Kế hoạch là trước tiên phải đứng vững ở câu lạc bộ văn học, tốt nhất là có thể làm luôn chức chủ nhiệm. Chỉ trách Trung Quốc giờ đã bỏ chế độ thế tập, chứ chủ nhiệm hiện tại đối với cậu Lâm đây thân thiết như anh em ruột, bằng không nhất định đã dâng chiếc ghế đó cho cậu rồi. Sau đó phải dẫn dắt câu lạc bộ văn học vượt qua cả Đoàn phóng viên. Tạm thời kế hoạch đến đó, trước mắt nhiệm vụ là viết một bài bình luận, phê bình sách không được thì phê bình văn học cũng được.
Hai tiết buổi chiều đều là giờ Toán. Lớp học ở trường Nam Tam Trung rất kỳ lạ, các môn giống nhau cứ thích dồn lại dạy liền một thể, giống như một bộ bài chưa bị xáo trộn, nhìn vào toàn là từng cặp một. Hai tiết Toán liền nhau thì coi như thầy Toán còn có lòng từ bi, chứ lớp 10-2 bên cạnh thì xui xẻo rút trúng lớp chủ nhiệm là giáo viên Toán. Thầy ấy yêu Toán đến mức muốn cả học sinh cũng yêu theo, nên một buổi sáng mà dạy liền năm tiết Toán, với ý định để học sinh ở cạnh Toán nhiều thêm một chút, lâu ngày sẽ nảy sinh tình cảm. Tiếc là học sinh lớp 10-2 không sinh được tình cảm, chỉ sinh được tức giận, bèn gửi thư nặc danh lên ban giám hiệu. Lãnh đạo nhà trường xử lý cao tay, biện giải rằng: “Động cơ hoàn toàn đúng đắn, chỉ là hành động có hơi chút sai lệch.” Vũ Tường thầm nghĩ mình may mắn không gặp loại giáo viên chủ nhiệm như vậy, mà lại gặp được cô Mai Huyên quản lý thoáng, nên quyết định dành hai tiết Toán đó để viết bài phê bình văn học.
Phê bình thì nhất định phải có một đối tượng, nếu không thì một tràng mắng chửi chẳng nhằm vào ai, dù sát thương lớn đến đâu cũng vô dụng. Vũ Tường không dám phê bình những người nổi danh, nhưng có thể phê chơi mấy tay mới ra mắt. Giống như xe ô tô không chạy thì hành khách còn có thể xuống đẩy, chứ tàu hỏa mà không chạy được thì khỏi nói chuyện đẩy. Chỉ là gần đây trong văn đàn Trung Quốc người “đẩy tàu hỏa” quá nhiều, Vũ Tường cũng không muốn phí công vô ích, nên quyết định lượng sức mà làm, cứ từ mấy thứ nhỏ nhỏ mà đẩy trước.
Xác định được phạm vi rồi thì phải khóa mục tiêu nạn nhân. Hứa Giai, người đã xuất bản hai cuốn sách, là một đối tượng “rất được” để ra tay. Nhưng hai cuốn ấy lại y như tiếng quỷ khóc giữa đêm trong tiểu thuyết kinh dị, chỉ nghe tiếng mà chẳng thấy hình. Bên ngoài quảng bá thì rầm rộ, nhưng bản thân sách lại chẳng thấy xuất hiện. Vũ Tường trong tay không có tư liệu, lại dâng lên một thái độ nghiên cứu nghiêm túc, nghĩ rằng cứ đợi hai cuốn sách đó xuất bản rồi sẽ phê bình cho sập cả hai cuốn ngôn tình ấy cũng chưa muộn.
Ánh mắt liền tập trung vào Tiêu Thiết. Bài viết của Tiêu Thiết giống như dự báo của nhà khoa học về nhân loại sau một nghìn năm, tỉ lệ đầu với thân thể bị đảo ngược. Hơn nữa, anh ta thường chẳng phân được cái nào chính cái nào phụ, viết văn y như đi nhặt ve chai. Quan trọng nhất là những phép so sánh cứng như sắt của anh ta, kiểu như câu: “Nhìn thấy bài văn thì giống như nhìn thấy củ cà rốt, đến sờ cũng chẳng muốn…” (nguyên văn của Tiêu Thiết trong “Tự tu Trung Văn” số tháng 11 năm 1998). Dưới câu này, Vũ Tường viết lời phê: “Tôi không hiểu! Vậy nếu là củ cải trắng thì sao?” Giọng điệu thì học theo cách Long Ứng Đài phê bình bộ ba truyện tình yêu của Vô Danh Thị.
Văn chương của Tiêu Thiết thật sự có thể làm mẫu phản diện, Vũ Tường phê bình mà trong lòng tràn ngập khoái chí, vỗ tay liên hồi, ví dụ như trong “Cảm giác trưởng thành” có câu: “Đi ngược lại con đường đã qua là không thể, cũng như năm tháng không quay đầu lại và nước sông không thể chảy ngược.” Vũ Tường chỉ nghe nói nước Trường Giang thì không thể chảy ngược, còn về lý thuyết nước sông có thủy triều lên xuống, lại thêm một chỗ sai rồi. Hai ngày sau báo được in ra và phát xuống, Vũ Tường cầm tờ báo liền tìm tác phẩm của mình trước tiên, cuối cùng đã tìm thấy “bảo vật” đang nằm trong góc với tiêu đề “Một vài phê bình của tôi về Tiêu Thiết”. Trong lòng cậu hơi không hài lòng, bởi vì xét theo bố cục thì nếu tiêu đề quá dài sẽ gây ảnh hưởng đến mỹ quan. Vì vậy chữ “văn chương” đứng trước “Tiêu Thiết” đã bị chém bỏ, khiến nội dung bỗng chốc biến thành công kích cá nhân. Xem tiếp phần nội dung, có đến hơn hai trăm chữ đã bị xóa, nhưng mục đích lại hoàn toàn không giống với cách sửa tiêu đề, những câu mỉa mai châm biếm sắc bén đã bị xoá bỏ. Tuy trong lòng vẫn còn bất mãn, nhưng đây là bài đầu tiên của cậu được đăng ở trường Nam Tam Trung nên sâu thẳm trong linh hồn vẫn là rất thích. Lén lút đọc bảy tám lần, cười thầm không biết bao nhiêu lượt, chỉ hận không thể để tất cả những ai biết chữ trên đời đều đọc nó vài lần.
Thực tế chứng minh rằng nhờ có bài viết của Lâm Vũ Tường mà tờ “Sơ Lộ” vốn như giấy nháp lại tăng giá trị không ít. Học sinh trường Nam Tam Trung đã quen đọc văn biền ngẫu, nay bỗng thấy một bài chửi người thì hứng thú dâng lên, ai nấy đều nhớ cái tên Lâm Vũ Tường, miệng truyền miệng khen ngợi. Tiền Vinh cũng đến chúc mừng mấy câu: “Thật không dễ đâu, đại tác gia cuối cùng cũng đăng được bài rồi, chúc mừng nhé!” Vũ Tường khi ấy đang ngập trong vui sướng, tai toàn nghe lời hay, tự nhiên cũng xem câu nói của Tiền Vinh như lời chúc mừng mà nhận lấy, giống như lúc mừng tiệc nhận phong bao, đợi khi người ta đi hết, phồn hoa tan rồi, trốn vào chỗ kín mở phong bao ra, mới phát hiện thằng Tiền này lại tặng mấy tờ tiền âm phủ, Vũ Tường bình tĩnh lại mới nếm ra vị châm chọc trong câu nói của Tiền Vinh, giống như bị dao sắc lướt qua một nhát, lúc đó chẳng cảm thấy gì, đến khi phát hiện có vết thương thì đau đớn nhân đôi. Cậu tức mà không phục, muốn chửi Tiền Vinh một trận, nhưng lại đang trong giờ học, khoảng cách quá xa, có chửi cũng chẳng có khí thế, không gây được tổn thương nghiêm trọng cho đối phương. Nghĩ tới nghĩ lui, quyết định tận dụng ngay vật liệu tại chỗ, quay sang nói với Diêu Thư Cầm: “Ủa, đúng rồi, sao lâu rồi tôi không thấy đại tác gia Tiền nào đó của cậu cho ra tác phẩm thế?”
Tai của Diêu Thư Cầm thì thính hơn của Vũ Tường nhiều, lập tức nghe ra được gai nhọn trong lời nói, nhổ vài cái là hết sạch: “Đại tác gia Lâm đây kiến thức uyên bác, tích lũy hơn một tháng cuối cùng cũng đăng được một bài chửi người, Tiền Vinh sao mà sánh nổi?”
Vũ Tường nghẹn họng không nói được câu nào. Diêu Thư Cầm liền truy kích: “Đại văn hào Lâm ơi, tiếp theo cậu định chửi ai đây? Thôi không cần nói cho tôi cái vinh hạnh ấy đâu, cậu cứ bận việc của mình đi, chúng tôi đều chờ đọc kỳ văn của cậu mà.” Nói xong cô mở sổ ghi chép, viết vào: “Lâm Vũ Tường nói chuyện trong giờ học không lý do, gây rối trật tự lớp học.” Vũ Tường tức đến muốn tự tử, trong lòng thầm bội phục Tiền Vinh đúng là rất biết cách thuần phục thú.
Vì thế, cả buổi chiều Vũ Tường đều uất nghẹn trong lòng, đến cái bình nước nóng của cậu dường như cũng muốn giận thay chủ. Đặt trên giá, chẳng biết bị ai quệt một cái, ruột bình vỡ tan thành bốn mảnh. Điều tra ra thì là người phòng số 1 va phải. Vũ Tường nhỏ nhẹ bảo cậu ta bồi thường, nào ngờ người càng giàu lại càng keo kiệt, cãi nhau với Vũ Tường cả buổi, nói rằng bình tự rơi. Tiền Vinh cũng đứng ra nói đỡ cho “đồng loại”: “Cái bình nước nóng của cậu đặt lòi ra thế kia, người ta vô ý đụng vào thì đâu thể trách họ. Các cậu sống quen ở ngoại ô rồi, phải có chút ý thức tập thể, đừng cứ làm theo ý mình, phải học cách tu dưỡng.”
Vũ Tường lại bốc lên một cơn giận, toàn thân nóng bừng, nhưng ngay lúc sắp bùng nổ thì nhớ tới hậu quả mà Lương Tử Quân từng gặp, cơn nóng lại tắt phụt, đành cúi đầu bước vào phòng số 2. Tiền Vinh làm “chỉ huy trưởng” phòng số 1 thì cười lớn, mắng: “Boorish pig! Country tyke! Đồ heo ngu dốt, con chó hoang nhà quê.” Rồi hắn bắt đầu phân tích tình hình đất nước: “Tại sao người Trung Quốc nhìn chung fibre… bản lĩnh lại không cao? Chủ yếu là do peasantry, tầng lớp nông dân quá nhiều, không được education, giáo dục đàng hoàng, nên thô lỗ và vô lễ. Thực ra phải tách người thành thị và người nông thôn ra mà nhìn thì mới công bằng, fair!”
Nhờ tiếng Anh của Lâm Vũ Tường quá kém, cậu ta nghe không hiểu mấy từ chính, nếu không nhất định đã xông ra quyết đấu. Phòng số 2 yên tĩnh hơn nhiều. Tạ Cảnh Uyên hiếm hoi lại đang đọc tờ “Sơ Lộ”, nói với Lâm Vũ Tường: “Bài văn này viết không hay. Viết văn là phải viết điều tích cực, mặt sáng, sao lại đi viết về mặt tiêu cực? Loại bài như vậy không thể được điểm cao đâu.”
Lâm Vũ Tường bụng đầy tức giận, lại bị Tạ Cảnh Uyên vô tình khơi đúng chỗ ngứa, cuối cùng không nén nổi, trút ra: “Hiểu cái quái gì mà nói! Bài này của tôi không phải là bài văn… không phải cái loại bài văn mà cậu nói… là một bài phê bình…” Nói đến đây lại không biết phải diễn tả thế nào, bao nhiêu lý do chuẩn bị sẵn bỗng rối tung thành một đống. Cậu ngồi phịch xuống giường, nói: “Cậu không biết thưởng thức, trình độ quá kém.” Mắng xong thì tâm trạng cũng cân bằng lại, trong phòng vốn chỉ có một người ấm ức, giờ lập tức tăng thêm một người nữa, Lâm Vũ Tường không thể không thấy khoan khoái.
Thẩm Kỳ mang cái béo hiếm thấy ở học sinh nông thôn, phần thịt béo đó như bị trừ bớt từ chiều cao mà ra, nhìn vào là biết ngay một kẻ rất hợp với việc ngủ. Tối nay đang ngủ ngon lành thì bị đánh thức, hắn giống như con rắn sau tiết Kinh Trập, thò đầu ra khỏi chăn hỏi: “Chuyện gì thế, chuyện gì thế?” Thấy Vũ Tường và Tạ Cảnh Uyên đều đang tức khí ngồi đó, hắn lại chui vào ngủ tiếp. Tần Vĩ Đống thì dường như đã được phòng số 1 cảm hóa cải tạo, suốt ngày chạy sang phòng số 1, ở phòng số 2 rất hiếm thấy bóng dáng, mà cách ăn mặc cũng bắt đầu thay đổi, áo ngắn tay thường mặc thêm áo dài tay bên ngoài. Vũ Tường đã sớm chẳng còn chút thiện cảm nào với người này, lại chạy sang phòng 205 bên cạnh để trút khổ với Dư Hùng. Dư Hùng khuyên: “Cậu cứ làm việc của cậu, liên quan gì đến họ? Đừng để ý đến họ là được rồi.” Vũ Tường thầm nghĩ: “Nói thì dễ, vậy cú đấm cậu từng phang vào chiếc xe lúc trước thì giải thích thế nào đây?” Trong lòng cậu chỉ muốn nói thẳng ra để bắt bẻ Dư Hùng cho bằng được.
Quay về đến cửa phòng mình, cậu phát hiện mình không mang chìa khóa, gõ mấy tiếng mà bên trong hoàn toàn không có phản ứng. Tiếc là Vũ Tường chưa từng nghe qua quan điểm của Shakespeare về chuyện này, “Hãy gõ cửa bằng lòng trắc ẩn dịu dàng, thì dù là cánh cửa cứng rắn nhất cũng sẽ mở ra.” Thế nên cậu càng gõ càng thô bạo, chỉ trách mình quá gầy còn cửa thì quá chắc, nếu không thì đã có thể bắt chước cảnh “phá cửa xông vào” trong phim cảnh sát, oai phong vô cùng. Không biết đã gõ bao nhiêu cái, đến mức ngón tay đều tê rần, vậy mà cánh cửa ấy vẫn sắt đá vô tình. Vũ Tường gõ đến bực bội rối loạn, đang định dùng chân thì bỗng nghe một tiếng “cạch”, có người mở cửa. Trong khoảnh khắc ấy Vũ Tường nôn nao kích động, thậm chí nảy ra một ý nghĩ kỳ lạ rằng nếu người mở cửa là Tiền Vinh, thì mọi ân oán đều xóa sạch.
Một gương mặt lạnh lùng hiện ra bên cạnh cánh cửa, là Tạ Cảnh Uyên. Tiền Vinh đang nằm trên giường phòng số 1 hét lên: “Đừng mở, Don’t open…” Thấy cửa đã mở, nửa người Vũ Tường đã bước vào, Tiền Vinh chỉ vào Tạ Cảnh Uyên nói: “You! Đừng lo chuyện bao đồng.” Vũ Tường vốn muốn cảm ơn Tạ Cảnh Uyên, nhưng Tạ Cảnh Uyên quay người đi vào phòng, bỏ mặc cậu đứng đó.
Vũ Tường trừng mắt nhìn Tiền Vinh, lần đầu tiên trong đời cậu nói tiếng Anh ngoài giờ học: “You, wait… and… see!”.