Thường thì con người ta khoan dung chỉ là để tỏ vẻ khoan dung, lắng nghe chỉ để tỏ vẻ là mình biết lắng nghe. Trường Nam Tam Trung cũng vậy. Lần đó họ cho Lâm Vũ Tường một dấu tích thật to và còn mở cả nhà tắm, chỉ để phô ra rằng mình làm việc dứt khoát và biết quan tâm học sinh. Lúc Vũ Tường lần đầu vạch trần chuyện sai trái, nhà trường thấy mới lạ, xử lý công minh để thể hiện khí độ. Không may là Vũ Tường lạc lối, thấy một cái cây bên đường liền tưởng rằng bên trong nhất định là rừng rậm, nào ngờ càng đi càng hoang vu, nhưng lại không chịu thừa nhận mình sai, một mực tin rằng khu rừng chỉ ở phía trước không xa. Thế là cậu vẫn viết nhật ký tuần để vạch trần, trong lòng mong nhà trường sẽ tiếp tục coi trọng. Trường chỉ có từng ấy chuyện xấu thôi, mà đã bị Lâm Vũ Tường vạch gần hết. Nhà trường tức giận không chịu nổi, lại gọi Lâm Vũ Tường lên.
Lần này hiệu trưởng Tiền không có mặt, người phụ trách khiển trách là đồng nghiệp của ông, cô Hồ Thư. Cô Hồ mới về dạy ở trường Nam Tam Trung được vài năm, dạy Ngữ văn lớp 12 kiêm giảng chuyên đề vể văn học phương Tây, dạy giỏi nên giữ chức giáo vụ. Theo truyền miệng của học sinh, cô Hồ là người giỏi lấy tình cảm lay động người khác, tuyến lệ lại phát triển, đang nói chuyện là nước mắt tuôn trào. Bất kỳ học sinh nào ngoan cố không nghe lời cũng đều không chống đỡ nổi, lần lượt cảm động rồi được cảm hóa. Vì thế sau lưng học sinh gọi cô là “Hồ muội”, sau lại đặt thêm một tên đồng âm nữa là “Khóc muội”. Được “Khóc muội” giáo huấn là việc nhiều học sinh mơ ước bấy lâu. Lần này lại rơi trúng Lâm Vũ Tường, mọi người nói Vũ Tường gặp vận may rồi. Trong lòng Lâm Vũ Tường vô cùng lo lắng, không biết mình đã phạm lỗi gì. Trước khi đi, cậu vỗ ngực nói: “Tôi đi gặp thử xem cô ấy là người thế nào!” Mọi người hoan hô. Tiền Vinh trêu rằng: “Cậu cứ đi đi, cậu mà khóc thì tôi dẫn đài truyền hình đến làm một bản tin “report” phỏng vấn cậu…” Trong giọng của hắn, đài truyền hình của trường giống như một chiếc túi xách, muốn mang đến là mang đến.
Vũ Tường cứng rắn lên, tự khích lệ bản thân: “Ta… Lâm Vũ Tường, đường đường là một trang nam tử hán, không vì chuyện tình nam nữ mà lay động, huống hồ chỉ là một Hồ Thư!” Cậu còn tự thấy may mắn vì mình chưa từng đọc tiểu thuyết ngôn tình, chưa rèn ra trái tim nhạy cảm hơn cả máy đo địa chấn của Trương Hoành.
Chỗ ngồi của giáo vụ Hồ nằm đối diện với hiệu trưởng Tiền. Khi đi ngang qua chỗ trống của hiệu trưởng Tiền, Vũ Tường căng thẳng vô cùng, như thể tinh thần của hiệu trưởng vẫn còn quanh quẩn nơi đó chưa tiêu tán. Giáo vụ Hồ thân thiện, nở nụ cười gọi: “Đến đây, ngồi chỗ này.”
Vũ Tường lén quan sát giáo vụ Hồ mấy lần, phát hiện ngũ quan của cô nếu nhìn riêng lẻ thì không đẹp lắm, mắt một mí, môi dày. Nhưng sức mạnh tập thể quả nhiên đáng sợ, những bộ phận ấy ghép lại với nhau thì cũng coi như được, hơn nữa vì khoảng cách giữa chúng hơi lớn, mỗi bộ phận đều có tính chủ động khách quan, phạm vi hoạt động rộng nên biểu cảm tạo ra đương nhiên cũng phong phú hơn nhiều.
Giáo vụ Hồ trước tiên bày ra một biểu cảm chào đón: “Em biết vì sao cô gọi em đến không?”
Vũ Tường vẫn chưa biết là nhật ký tuần gây họa, bèn lắc đầu. Giáo vụ Hồ quả nhiên xuất thân từ ngành văn học phương Tây, mở miệng là hỏi: “Em rất thích đọc sách phải không?”
Vũ Tường vội đáp có. Giáo vụ Hồ hỏi tiếp: “Em đọc nhiều sách thuộc chủ nghĩa hiện thực phê phán chứ?” Chỉ chờ Vũ Tường gật đầu. Nhưng Vũ Tường vội nói không phải. Giáo vụ Hồ trầm ngâm một lát rồi nói: “Vậy chủ nghĩa tự nhiên thì sao, ví dụ như sách của Zola? Em có thích sách của thầy Maupassant không?” (ND: Zola là nhà văn nổi tiếng của Pháp trong thế kỉ 19, ông được coi là nhà văn tiên phong của chủ nghĩa tự nhiên; Maupassant là nhà văn viết truyện ngắn nổi tiếng người Pháp)
Vũ Tường sợ nếu tiếp tục không biết thì sẽ bị Hồ Thư xem là kẻ vô tri, bèn nói: “Cũng có ạ, đã đọc một ít.”
Giáo vụ Hồ phát hiện ra căn nguyên vấn đề, mắt sáng lên, giọng cũng trở nên cao hơn vài phần: “Thảo nào, em chịu ảnh hưởng của Flaubert phải không? Nhưng cô thấy em cũng đâu làm được cái kiểu “phát hiện vấn đề mà không đưa ra ý kiến” nhỉ. Thế còn văn học phái hiện đại? Có đọc không?” (ND: Flaubert là tiểu thuyết gia người Pháp, ông được coi là một trong những nhà văn tiên phong của văn học hiện thực)
Vũ Tường nghe mà chẳng hiểu gì hết, việc duy nhất có thể làm là liên tục gật đầu. Cậu tưởng sau đó giáo vụ Hồ sẽ tiếp tục nói ra hàng loạt cái tên mình chưa từng nghe, tai cậu sắp đổ mồ hôi đến nơi. Không ngờ giáo vụ Hồ đã thông suốt Đông Tây, đi một vòng nước ngoài rồi lại quay về Trung Quốc: “Tôi nhận ra em có tính cách của một thi sĩ, bất mãn với triều đình, à… rồi thì… là chí lớn chưa thành đúng không, từ đó mới diễn hóa thành tính khí ngỗ nghịch bất kham.”
Dù đã nghe lâu như vậy nhưng Vũ Tường vẫn chẳng hiểu mô tê gì, nội dung cuộc nói chuyện vẫn quanh quẩn ở một nơi xa xôi nào đó. Cậu không tiện hỏi lại, đành chờ giáo vụ Hồ tự mình giải thích.
Cuối cùng, giáo vụ Hồ cũng thoát khỏi xiềng xích của lịch sử, nói ra một nhân vật chưa quá già để trở thành lịch sử: “Hiệu trưởng Tiền lên Nam Kinh làm chút việc, trước khi đi ông ấy dặn tôi phải nói chuyện với em một lần, hiệu trưởng Tiền rất quan tâm đến em đấy. Em biết lần này vì sao gọi em đến không?”
Vũ Tường lần thứ hai lắc đầu trước đúng câu hỏi ấy.
Giáo vụ Hồ vẫn không chịu nhắc tới bài nhật ký tuần, mà nói: “Có lẽ chính em cũng không nhận ra điều gì, nhưng trong mắt những người xung quanh, trên người em đã xuất hiện một loại biến hóa. Loại biến hóa này đối với độ tuổi của em mà nói thì là quá sớm. Tôi không biết điều gì đã thúc đẩy em có sự biến đổi từ lượng sang chất như vậy, nên hôm nay chúng ta mới cần nói chuyện.”
Vũ Tường nghe mà lạnh sống lưng, hoàn toàn không biết “biến hóa” là cái gì. Trong lời của giáo vụ Hồ, dường như cậu là một con sâu, lại sớm kết kén. Vũ Tường hỏi: “Biến… biến hóa gì ạ?”
Câu nói ấy rơi đúng vào cái bẫy của giáo vụ Hồ. Giáo vụ Hồ nói: “Tôi nói nhé, với tư cách là người trong cuộc, các em không thể nhận ra sự biến đổi tinh tế đó đâu.”
Lâm Vũ Tường sốt ruột đến mức muốn bật dậy:“ Cô Hồ, em thật sự không biết biến hóa là gì cả.”
Giáo vụ Hồ nhướng mày nói: “Cho nên tôi mới nói, bản thân em hoàn toàn không thể phát hiện sự thay đổi trên người mình.”
Vũ Tường hoàn toàn chưa được “lĩnh giáo” bản lĩnh cảm hóa bằng nước mắt của cô, chỉ biết mình sốt ruột đến mức sắp khóc đến nơi. Giáo vụ Hồ cuối cùng cũng đổi cách hỏi, nói: “Có phải trong lòng em có một loại ham muốn muốn bộc phát phải không? Hoặc là em tràn đầy căm ghét đối với thế giới này?”
Vũ Tường hoảng đến mức dù có cũng không dám nhận, khẽ nói: “Không… không có ạ.”
Giáo vụ Hồ nghiêng đầu sang một bên: “Vậy thì… có phải em cảm thấy mình chí lớn chưa thành, hoặc nói cách khác là có hoài bão, có mong muốn nào đó mà ở trường Nam Tam Trung không thể thực hiện được phải không?”
Câu đó chạm đúng chỗ đau. Lâm Vũ Tường suy nghĩ một chút rồi nói: “Thật ra cũng không có ạ.” Sau đó không biết ăn gan báo hay sao mà lại dám nói tiếp: “Chỉ là… em cảm thấy việc tuyển chọn trong trường Tam Nam Trung, ví dụ như câu lạc bộ văn học ấy ạ, không được hợp lý cho lắm.” Nói xong lại nhìn sang giáo vụ Hồ, thấy cô ấy không bị tức chết thì lại nói tiếp: “Mấy cái đó chỉ là xem ai cãi to hơn, hoàn toàn không thể đánh giá được trình độ của một người. Em trước đây từng đạt giải nhất quốc gia cuộc thi sáng tác mà vẫn không được vào câu lạc bộ văn học.” Nói đến đây chính cậu cũng thấy xấu hổ, hai má nóng bừng lên.
Giáo vụ Hồ nghe đến ba chữ “giải nhất toàn quốc” thì thần sắc thay đổi hẳn, như thể Lâm Vũ Tường trước mặt đã biến thành người khác, phải quan sát lại từ đầu đến cuối. Cô nói: “Không nhìn ra đấy! Thế sao em không nói với cô chứ? Việc tuyển chọn câu lạc bộ văn học là một hình thức mới, tất nhiên sẽ có chỗ chưa ổn. Em có thể tìm giáo viên phụ trách… là… thầy Trang, giải thích tình hình. Trường ta rất quý trọng nhân tài đó, sẽ tạo điều kiện cho mỗi người được tự do phát huy. Cũng có thể nhờ cô Mai nói giúp một tiếng, có rất nhiều con đường mà.”
Trong mắt Lâm Vũ Tường như bừng sáng lên một ngọn đèn. Giáo vụ Hồ nhận ra vừa nói lệch khỏi chủ đề, lại kéo về: “Nhưng mà cho dù một người từng có thành tích huy hoàng đến đâu đi nữa, cậu ta cũng không được kiêu ngạo. Không thể muốn nói gì thì nói. Em sống trong xã hội này, em phải chấp nhận xã hội này.”
Lâm Vũ Tường vừa mới hiểu ra được một chút thì lại chìm vào sương mù.
Giáo vụ Hồ bản thân cũng không muốn làm thần tiên gì hết, liền xé bỏ vẻ thần bí, lấy tập nhật ký tuần của Vũ Tường ra: “Nội dung em viết trong này, tôi xem qua rồi.”
Lâm Vũ Tường không biết những lời phía sau là tốt hay xấu, nhất thời không biết nên biểu lộ nét mặt thế nào. Giáo vụ Hồ khó khăn lắm mới lật tới một bài, nói: “Tôi tùy tiện lật một bài, đây em xem…Em nói công tác quản lý ký túc xá của nhà trường không nghiêm, buổi tối sau khi tắt đèn các phòng khác vẫn ồn ào. Chuyện này không nên để nhà trường phải nhắc đi nhắc lại, nhà trường đã rất nỗ lực trong việc quản lý ký túc xá…” Nói rồi hai tay dang rộng, biểu thị nỗ lực đã bỏ ra lớn đến như thế. “Nhưng mà, học sinh bây giờ cái tôi quá lớn, muốn làm gì thì làm. Dù quy định của nhà trường có hoàn hảo đến đâu cũng không thể bắt học sinh tự giác, nhà trường cũng đang ở trong tình thế khó xử. Đây là chuyện của cả hai bên, quan trọng hơn là sự hợp tác tự giác của học sinh.”
Vũ Tường không dám nói lời nào.
Giáo vụ Hồ khẽ thở dài, nhìn về phía bức tường, thả mình vào dòng sông ký ức, đợi đến khi bản thân đã chìm thật sâu trong đó rồi mới chậm rãi nói: “Tôi lại nhớ đến thời đại học của mình rồi, ôi, quãng ngày tháng đó đẹp biết bao. Khi ấy chúng tôi vẫn còn là một nhóm cô gái. Tôi nhớ lúc đó trong ký túc xá, chúng tôi đặc biệt yêu thương nhau, bạn thiếu gì thì người khác sẽ mang cho bạn thứ đó. Đại học quản lý không nghiêm, hồi đó có một bạn nữ người Tứ Xuyên nằm giường trên của tôi, cơ thể rất yếu, y sĩ trong trường bảo chúng tôi phải đảm bảo sự yên tĩnh cho cô ấy. Cô ấy luôn bị đau đầu, ôi, lúc đó chúng tôi đâu ngờ rằng cô ấy đã mắc u não rồi! Mấy chúng tôi đều rất quan tâm chăm sóc lẫn nhau, nghĩ lại mà lòng thấy ấm áp. Đến năm ba, cô gái người Tứ Xuyên ấy đã không đến học nữa, cô ấy thông minh lắm! Chỉ tiếc rằng… khi đó chúng tôi đã khóc suốt một đêm…” Lâm Vũ Tường chú ý đôi mắt của giáo vụ Hồ, quả nhiên có một vệt nước mắt lấp lánh đang được mí dưới đỡ lấy. Giáo vụ Hồ cũng tự hiểu điều đó, đã chuẩn bị sẵn một chiếc khăn tay, lau một cái rồi nói: “Sau này các em sẽ hiểu thôi, tình bạn đáng quý lắm. Bây giờ các em ầm ĩ cãi cọ thế nào đi nữa, sau này nhớ lại cũng sẽ bật cười vì sự không hiểu chuyện của mình lúc ấy.”
Vũ Tường thầm than giáo vụ Hồ thật lợi hại, nước mắt ấy cứ như gia nhân, muốn triệu là có ngay. Đã nói chuyện đến mức nước mắt xuất hiện như vậy, tự nhiên không tiện nói gì thêm nữa. Chờ “gia nhân” kia rút lui hết, giáo vụ Hồ nói: “Công tác quản lý của nhà trường đúng là cũng có một số điểm chưa được như ý, những điều này nhà trường sẽ từng bước cải thiện. Tất nhiên cũng hoan nghênh học sinh viết trong nhật ký để chỉ ra, nhưng tinh lực của học sinh không nên tập trung quá nhiều vào chuyện này, nhật ký chủ yếu là để ghi lại kế hoạch học tập của học sinh. Ví dụ đặt ra một kế hoạch rồi tổng kết lại v.v., biết chưa?” Sau đó khách sáo thêm vài câu nữa thì cho Lâm Vũ Tường rời đi. Lâm Vũ Tường lại hiểu sai ý cuộc nói chuyện này, tưởng rằng nhà trường ủng hộ cậu viết, chỉ là lo ảnh hưởng đến việc học, vì thế vô cùng cảm kích sự quan tâm của nhà trường. Quay về liền kể với các bạn chuyện anh hùng của mình. Tiền Vinh không ngờ “Khóc muội” lại thật sự khóc, tiếc ngẩn người vì bỏ lỡ một tin tức hay, than: “Shit, missing a wonderful newsbeat! Chết tiệt, bỏ lỡ một cuộc phỏng vấn độc quyền tuyệt đỉnh rồi!” Tự trách mình vì không có cái “vinh dự” được gọi đi.
Nguyện vọng vào câu lạc bộ văn học của Vũ Tường đương nhiên đã được thực hiện. Thầy Trang chính là vị giám khảo “bắt dế” ngày hôm đó, bút danh là Trang Chu. Người nghiên cứu lịch sử quen với cách đọc sách cổ từ phải sang trái, mọi người đều đùa gọi ông là “Chu Trang”. Một giáo viên lịch sử kỳ cựu ở trường Nam Tam Trung là bạn thân của “Chu Trang”, thấy cái tên ấy đã động đến dây thần kinh lịch sử, cảm thấy gọi “Chu Trang” vẫn chưa đã, liền đào sâu thêm một tầng, đổi thành Thẩm Vạn Tam. Để thể hiện sự thân thiết, bỏ luôn chữ “Thẩm”, đổi chữ “Tam” thành “Sơn”, gọi thẳng là “Vạn Sơn”. Giáo viên với nhau đã gọi như thế, học sinh tất nhiên cũng chẳng khách sáo, gặp mặt đều gọi là thầy Vạn.
Thầy Vạn thực ra tuổi tác không lớn như vẻ bề ngoài giả bộ, đã viết được ba bốn cuốn sách. Từ xưa văn nhân thường hói đầu, Vạn Sơn cũng không thoát khỏi vận rủi ấy. Bốn mươi tuổi bắt đầu hói nhẹ, ban đầu còn đỡ, tóc trên đầu vẫn nhiều, chỗ này hói thì cùng lắm chải từ chỗ khác sang, một phương gặp nạn, bát phương chi viện. Về sau càng hói càng dữ dội, lực lượng chi viện không còn đủ sức, chỗ này lo thì chỗ kia hở, chăm lo không xuể, cuối cùng hói đến thành tích như ngày hôm nay. Vạn Sơn từng đội tóc giả, nhưng tại đại hội thể thao của giáo viên bị rơi một lần, trở thành trò cười muôn đời, không dám đội nữa, đành mặc kệ cái đầu ấy luôn.
Câu lạc bộ văn học mỗi tuần sinh hoạt một lần. Nói là sinh hoạt, chi bằng nói là nằm yên như chết, chủ yếu là nghe thầy Vạn giảng lịch sử văn học Trung Quốc. Thầy Vạn là người vô cùng nghiêm túc và tỉ mỉ, vốn là chất liệu làm nghiên cứu toán thuần túy, lại bị văn học làm lãng phí mất. Thầy quen nói thật, lưỡi cứng đơ, nói chuyện không rõ ràng. Đến chuyện phân biệt Lý Ngư và Lý Dục cũng phải xoay xở cả buổi, lặp đi lặp lại: “Con cá chép này không phải con cá chép kia đâu.” (ND: trong tiếng Trung, Lý Ngư, Lý Dục và cá chép đều phát âm gần giống nhau) Gần đây giảng đến Đỗ Phủ và Đỗ Mục lại càng phát huy sức mạnh của “máy xay”, rướn lưỡi mà giải thích: “Đậu hũ này không phải đậu hũ kia đâu.” (ND: trong tiếng Trung, Đỗ Phủ, Đỗ Mục và đậu hũ đều phát âm gần giống nhau) Mà thi nhân Trung Quốc thì lại quá nhiều, bị ám ảnh bởi bài học về “cá chép”, thầy sợ đến mức không dám giảng Lý Dật và Lý Kỳ. Bốn buổi đầu là phần giới thiệu văn học Trung Quốc, Lâm Vũ Tường không nghe được, tưởng rằng mình đã bỏ lỡ nhiều, nên đến thư viện mượn sách về đọc, quyết tâm phải khôi phục lại vinh quang thời cấp hai trong câu lạc bộ văn học. Nhưng sách mượn về rồi lại mất hứng, chỉ xem được phần lời tựa, mà còn chưa xem hết. Cuộc sống cấp ba bỗng dưng rộng rãi hơn nhiều so với cấp hai, thích nghe thì nghe, mọi thứ đều tùy ý, thậm chí ngủ trong giờ học cũng được, miễn là không ngáy. Đến mùa thu, Lâm Vũ Tường dường như đã chuẩn bị sẵn tinh thần ngủ đông, vào lớp toàn ngủ quên trời đất. Tạ Cảnh Uyên ban đầu còn lấy cùi chỏ huých vài cái, nhưng bất lực quá đành mặc kệ, nghĩ rằng Lâm Vũ Tường vẫn có tiềm năng học tập, chỉ cần cố gắng là ổn. Lâm Vũ Tường có bản lĩnh nói dối nhưng lại không có bản lĩnh vá lời nói dối của mình, điểm Toán liên tục không đạt. Thầy dạy Toán thì bắn “vệ tinh”, bảo rằng ở trường Nam Tam Trung nếu điểm Toán không đạt cũng là chuyện thường tình, như vậy mới thúc đẩy học sinh cố gắng học tập. Vũ Tường chỉ nghe lọt nửa câu, xem việc trượt Toán là rất đỗi bình thường, chẳng để tâm, tự nhủ mình thông minh vô đối, ôn cấp tốc cái là xong ấy mà. Thế là chính cậu cũng tin tưởng tuyệt đối vào lời nói dối của mình, còn điểm thì tuột dốc không phanh.
Từ sau khi lên cấp ba được hai tháng, trừ văn học ra thì hứng thú của Lâm Vũ Tường tựa như khuôn mặt kiều nữ Tô Châu trong mắt văn nhân phương Tây, biến hóa khôn lường. Hôm nay mê đánh cờ, mai lại thích tin học. Thế nhưng những sở thích vốn dĩ tốt đẹp này, đến tay Vũ Tường lại chẳng khác gì các vị huấn luyện viên ngoại quốc lừng danh dẫn dắt đội tuyển bóng đá Trung Quốc, ai đến cũng bại tơi bại tả. Vũ Tường cái gì cũng biết sơ sơ, tự nhận mình là nhà “tạp học”, thực ra chỉ là kẻ “tạp nhạp phá hoại”. Tâm tư dành cho việc học thì tiêu sạch. Ở Nam Tam Trung, ngoại trừ áp lực đè nặng trong lòng, tay chân của cậu cứ như vẫn còn ngủ vùi giữa mùa hè, thả lỏng đến mức chẳng buồn động đậy. Có điều, bản lĩnh nói dối thì ngày càng tiến bộ, giả đến mức ngay cả khúc gỗ cũng phải gật gù tin là thật.
Những ngày như thế cứ trôi qua, lâu rồi trong lòng cũng cảm thấy trống rỗng. Vũ Tường xem việc gia nhập câu lạc bộ văn học như một dấu mốc kết thúc hai tháng sống buông thả trước đó.
Trường nội trú chiều thứ Sáu nào cũng cho tan sớm, các loại hoạt động đều tập trung diễn ra vào khoảng thời gian ấy. Vũ Tường trước tiên đến chỗ thầy Lưu Tri Chương xin phép, rồi mới đến báo danh ở câu lạc bộ văn học. Trong lòng có chút căng thẳng. Vạn Sơn gọi cậu lại bên mình rồi giới thiệu: “Đây là Lâm Vũ Tường, viết văn rất giỏi.”
Học sinh đều mười phần kinh sợ, bởi trong truyện kiếm hiệp, mỗi khi đại hội võ lâm khai mạc, các cao thủ luôn nửa đường từ trên trời đáp xuống chen vào. Tình cảnh bây giờ na ná như thế, ai nấy đều đề phòng Lâm Vũ Tường. Vũ Tường thì tha thiết mong Vạn Sơn giới thiệu chuyện mình từng đoạt giải để gây dựng uy tín trong đám học sinh. Không ngờ Vạn Sơn, y như mọi văn nhân lão luyện khác, đã sớm xem nhẹ danh lợi, chẳng hề coi trọng mấy thứ đó.
Vạn Sơn giới thiệu xong lịch sử văn học Trung Quốc, theo lý ra phải giới thiệu chi tiết. Thầy vốn chuẩn bị tiết này sẽ nói về “Hoài Nam Tử”, nhưng chợt nghĩ ra một việc quan trọng, liền nói: “Lúc mới đầu do chúng ta… mới thành lập nên mới chỉ tạm thời chọn ra một chủ nhiệm. Giờ mọi người đã quen biết nhau hơn một tháng, chắc đã rất hiểu nhau rồi. Tôi nghĩ vài tuần nữa sẽ tiến hành bầu chọn. Chúng ta nên dân chủ bỏ phiếu một chút. Được rồi, quyết vậy nhé.”
Lần trước câu lạc bộ đã bố trí sai người, vị chủ nhiệm ẩn dật kia cố ý cúi đầu lật sách, không thèm nhìn ai. Các hội viên khác thì đưa mắt nhìn nhau, âm thầm trao đổi bằng ánh nhìn. Vũ Tường ngồi ngay ngắn, mỉm cười, tạo ra một ảo giác khiến người ta tưởng rằng hắn xuất hiện lúc này chính là để làm chủ nhiệm. Trong lòng nghĩ, lần này đến thật đúng lúc, vừa khéo gặp kỳ bầu cử, lỡ như được chọn làm chủ nhiệm thì sẽ có vốn mà đối đầu với Tiền Vinh.
Ngay buổi học đầu tiên, Vũ Tường đã đi nước cờ thu phục nhân tâm. Mượn bài viết của người ta, vừa xem liền khen lấy khen để. Dù là ai có sắt đá đến mấy, gặp nịnh hót cũng đều thu nhận theo quy định. Chiêu này của Vũ Tường hiệu quả thấy rõ, mọi người xung quanh đều bị khen cho choáng váng cả đầu óc.
Do Vạn Sơn khá thiên vị thể loại tản văn nên phần lớn hội viên đều viết tản văn. Trong tản văn, câu chữ rất dễ trở nên sáo mòn, thế là các hội viên phải dốc hết tâm trí cùng sở học để tìm tòi cách viết. Điều khiến Lâm Vũ Tường cảm nhận sâu sắc nhất là có một hội viên tự xưng tinh thông tu từ. Một câu đơn giản như “Tôi thấy những bông sen tụ lại với nhau, gió mát thổi qua, tất cả đều xòe lá ra.” mà vào tản văn của cậu ta lại trở nên phức tạp như: “Ta chiêm bái bầy liên hoa, gió, không cái nào không xoè lá”, khiến cậu khâm phục đến không nói nên lời. Còn có một trường phái bút pháp tiên phong khác, như: “Tên này thật xấu xa đến mức không thể tả được, làm tôi tổn thương vô cùng.” Vũ Tường hoàn toàn không hiểu nổi. Người đó nói: “Đây là trường phái hiện đại mới nhất, chủ nghĩa “dị loại”.” Sau đó lấy ra một tờ báo nổi tiếng, chỉ vào một chuyên mục tên là “Văn học dị loại”, hiếm khi độc lạ lại gặp được đồng loại, phấn khởi nói: “Đây là bút pháp đang thịnh hành ở đô thị hiện nay.”
Vũ Tường nhận lấy tờ báo xem, tựa như gặp được bạn quen, những bài viết trong này toàn mang phong cách của Tiền Vinh. “Ánh dương shine chiếu xuống. Đang pat my skin vuốt ve làn da tôi. Đây là tôi sao? Là tôi trước đây sao? Phải không? NO!Not me! Tôi làm sao vậy?……” Vũ Tường đọc nửa ngày vẫn không biết tác giả rốt cuộc bị làm sao, liền lắc đầu nói: “Dị loại! Dị loại!”
Trên bục, thầy Vạn đang giảng về các thần thoại trong “Hoài Nam Tử”. Thế nhưng thầy Vạn giảng bài khô khan đến mức bất kỳ câu chuyện thần thoại hấp dẫn nào đến miệng thầy đều biến thành chuyện ma quái, không sót một cái nào. Các thành viên trong câu lạc bộ hầu như chẳng nghe thầy giảng, chỉ chép chép ghi chú, để kiếm đủ điểm số. Thầy Vạn giảng xong bài, nhấc cổ tay xem đồng hồ, thấy vẫn còn vài phút để giày xéo học sinh, bèn nói: “Tập san “Sơ Lộ” của chúng ta sắp bắt đầu nhận bài viết trở lại, mọi người hãy viết những bài thật hay nhiều một chút, để cho chủ nhiệm hiện tại chọn lọc, cũng có thể nộp thẳng cho tôi. Văn học Trung Quốc thâm sâu vô cùng, mọi người nhất định phải tránh nóng vội cầu thành, đừng phù phiếm, phải từng bước một. Trước hết viết những cảm ngộ nhỏ, rồi viết tản văn nhỏ, đợi khi có năng lực khống chế câu chữ rồi, hãy viết cảm ngộ lớn, tản văn lớn. “Sơ Lộ” cũng đã ra nhiều số rồi, các loại đánh giá khác nhau đều có, nhưng chúng ta, câu lạc bộ văn học của chúng ta có tính tự chủ của chúng ta, chúng ta làm là thứ văn học thuộc về chính chúng ta…”