Gần đây có hai cuốn sách đã thu hút sự chú ý của tôi. Một là “Chia rẽ lớn: Bản chất con người và sự tái thiết trật tự xã hội” của Francis Fukuyama, cuốn còn lại là “Biến Động Lớn” của Ervin Laszlo. Sở dĩ hai cuốn sách này khiến tôi chú ý là vì những vấn đề mà hai nhà tư tưởng phương Tây này đề cập cũng chính là những vấn đề mà tôi đã trăn trở suốt hơn mười năm qua. Thậm chí, tác phẩm của tôi còn được bắt đầu viết sớm hơn họ (từ năm 1994), tuy rằng thời gian xuất bản lại muộn hơn. Nếu năm nay có thể xuất bản, tên sách của tôi sẽ lần lượt là “Vấn Thiên Mệnh: Khủng hoảng tinh thần của nhân loại trong thế kỷ 21” và “Triết học phương Tây đã chết”. Tôi đã dành tổng cộng 8 năm để hoàn thành hai tác phẩm này, với dung lượng gần một triệu chữ. Chỉ riêng về số chữ thì đã gấp đôi hai cuốn sách kể trên cộng lại. Tuy tôi và hai nhà tư tưởng trên có sự đồng điệu lớn trong việc quan tâm đến các vấn đề, nhưng trong việc truy tìm cội nguồn và đưa ra kết luận giải quyết lại tồn tại những khác biệt khá lớn. Có lẽ là do sự khác biệt về tư duy giữa người phương Đông và người phương Tây.
So sánh mà nói, Fukuyama là một học giả người Mỹ gốc Nhật gần như đã hoàn toàn Tây hóa (thậm chí có thể nói là Mỹ hóa), chuyên nghiên cứu các vấn đề nhân văn và chính trị. Còn Laszlo là một học giả người Mỹ gốc Do Thái Hungary, thuở nhỏ ông là một thần đồng âm nhạc, khi trưởng thành trở thành một triết gia hệ thống xuất sắc, chuyên gia về thuyết tiến hóa mở rộng và các vấn đề nhân văn toàn cầu. Về phần tôi, tôi là một học giả từng chuyển hướng từ vật lý lý thuyết sang điều khiển học, lý thuyết hệ thống, lý thuyết thông tin, rồi lại chuyển sang điều khiển học xã hội, triết học thông tin, và cuối cùng là nghiên cứu các vấn đề về con người. Về độ tuổi, tôi nằm giữa Fukuyama và Laszlo, Fukuyama trẻ hơn và Laszlo lớn tuổi hơn tôi.
Vậy vấn đề mà chúng tôi cùng quan tâm rốt cuộc là gì? Tóm lại trong một câu, đó là mức độ nghiêm trọng của tình hình nhân loại hiện tại và con đường hoặc kết cục có thể xảy ra trong tương lai của nhân loại. Chúng tôi dường như đều nhất trí nhận ra các vấn đề sau: cùng với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học kỹ thuật hiện đại và sự tăng trưởng của nền kinh tế toàn cầu hóa, loài người đang ngày càng phải đối mặt với ba loại phá hủy sinh thái nghiêm trọng, gần như liên kết với nhau như một chuỗi phản ứng:
Thứ nhất, sự hủy hoại hệ sinh thái tự nhiên: ô nhiễm không khí và nước nghiêm trọng, sa mạc hóa và sa mạc hóa đất đai nghiêm trọng, và sự tuyệt chủng nhanh chóng của các loài;
Thứ hai, sự hủy hoại hệ sinh thái xã hội: sự phân cực giàu nghèo ngày càng tăng, sự tan vỡ của các gia đình, tỷ lệ tội phạm gia tăng mạnh mẽ, xung đột tôn giáo, mâu thuẫn chủng tộc và tranh chấp sắc tộc ngày càng gia tăng, cùng với sự trỗi dậy của chủ nghĩa khủng bố, ly khai và bạo lực;
Thứ ba, sự hủy hoại hệ sinh thái tinh thần của con người: sự suy thoái đạo đức lan rộng. Đạo đức tôn giáo phương Tây đã xuống mức thấp nhất trong lịch sử, và đạo đức thân tộc Trung Quốc cũng đã trải qua sự suy thoái và tuyệt chủng chưa từng có. Đây chính là gốc rễ tâm lý sâu xa nhất của sự bùng phát tội phạm và các chứng bệnh tâm thần của con người.
Suy cho cùng, sự hủy diệt của ba hệ sinh thái này đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của nhân loại. Nói một cách thẳng thắn, việc nhân loại mù quáng theo đuổi tiến bộ công nghệ và kinh tế thực chất đang đẩy nhanh sự tồn tại không bền vững của chính mình, hay đúng hơn là sự tuyệt chủng. Nhân loại đang sử dụng một thứ chủ nghĩa duy lý ngày càng lệch lạc để đẩy nhanh sự hủy diệt của chính mình, và đây chính là căn nguyên của mọi hiểm họa. Câu hỏi vẫn còn đó: nguồn gốc của vấn đề là gì? Và làm thế nào để giải quyết nó?
So sánh mà nói, trong cuốn “Chia rẽ lớn”, Fukuyama tập trung nhiều hơn vào sự hủy diệt của hệ sinh thái xã hội, còn trong cuốn “Biến Động Lớn”, Laszlo lại tập trung hơn vào sự hủy diệt của hệ sinh thái tự nhiên, mặc dù cả hai đều nhìn thấy sự diễn ra đồng thời của ba loại hủy diệt sinh thái này. Về viễn cảnh tương lai, Fukuyama tỏ ra khá lạc quan, trong khi Laszlo lại bi quan hơn, thậm chí còn tiên đoán rằng năm sụp đổ của nhân loại đang cận kề (năm 2010), tức là chỉ cách thời điểm hiện tại (2002) khoảng 8 năm.
Fukuyama cho rằng vấn đề nằm ở bản chất con người. Chừng nào chủ nghĩa tư bản còn liên tục thay đổi và thích nghi thì nó vẫn đầy sức sống, sẽ không có trở ngại nào không thể vượt qua trong tương lai. Còn Laszlo lại cho rằng vấn đề hoàn toàn không đơn giản như vậy. Sự biến động to lớn hiện nay là do con người đã lạm dụng chủ nghĩa duy lý, thứ từng rất thành công trong quá khứ. Nhân loại không nên tiếp tục dùng công cụ động lực học tuyến tính từng đem lại thành tựu to lớn trong quá khứ để đối diện với tương lai. Chính sự lỗi thời của công cụ, của tư tưởng và của phương pháp tư duy đã trở thành căn nguyên khiến cho sự tồn tại của nhân loại không thể bền vững. Laszlo kêu gọi một cuộc cách mạng toàn diện dựa trên thuyết tiến hóa mở rộng và sự thức tỉnh trong ý thức con người. “Biến động lớn” hiện tại đang đẩy nhân loại tiến đến một điểm phân kỳ tới hạn của quá trình tiến hóa. Nếu cứ tiếp tục như hiện nay, thì chỉ có hai khả năng, hoặc là sụp đổ, hoặc là tái sinh, và thời điểm diễn ra sụp đổ hay tái sinh ấy sẽ rơi vào khoảng năm 2010, không xa nữa. Nỗi lo lắng sâu sắc của Laszlo về tương lai nhân loại hiện lên rõ rệt trên từng trang giấy, khiến người ta vừa khâm phục, vừa kính trọng. Có bao nhiêu người trong chúng ta trên thế giới này có được sự hiểu biết sâu sắc và nhận thức như Laszlo về tình hình nguy hiểm này?
Theo quan điểm của tôi, mặc dù cả ông Fukuyama và ông Laszlo đều có sự đồng cảm đáng kể với tôi về tình trạng hiện tại của nhân loại như được mô tả trong các cuốn sách của họ, nhưng chúng tôi lại khác biệt đáng kể khi nói đến nguyên nhân gốc rễ của các vấn đề và con đường phía trước để tìm ra giải pháp. Quan điểm của cả hai vẫn bám rễ sâu trong giới hạn của triết học phương Tây truyền thống, và họ không thể thoát ra khỏi điều này. Mặc dù lời kêu gọi của Laszlo về một nền đạo đức toàn cầu và một cuộc cách mạng trong ý thức con người có tầm nhìn xa hơn so với Fukuyama, nhưng đạo đức toàn cầu là gì? Và chìa khóa cho cuộc cách mạng trong ý thức con người này là gì? Trong tầm nhìn của Laszlo, dường như không thấy được mối liên hệ nào với các dân tộc khác, đặc biệt là người phương Đông, nhất là người Trung Quốc. Nói thẳng ra, Laszlo vẫn chỉ đặt kỳ vọng vào tư duy lý tính đặc hữu của phương Tây như là con đường duy nhất cho tương lai.
Khi bàn đến nguyên nhân gốc rễ của vấn đề, Fukuyama trước hết nhắc đến “bản chất con người”, cho rằng mọi sự “chia rẽ lớn” hiện nay trong nhân loại đều bắt nguồn từ bản chất đó. Nhưng bản chất con người rốt cuộc cần được phân tích một cách sâu sắc và toàn diện ra sao? Thì ông lại dừng lại ở đó. Ông vẫn kiên trì tin vào “sức sống của chủ nghĩa tư bản”. Còn Laszlo thì tin chắc rằng nguyên nhân gốc rễ dẫn đến “biến động lớn” nằm ở những giới hạn, sự phiến diện và thiếu toàn diện của học thuyết tiến hóa duy lý, vốn từng được xem là đúng đắn trong quá khứ. Do đó, ông đề xuất “thuyết tiến hóa tổng thể”, và ngay lập tức đề cập đến vấn đề cần thiết phải có một cuộc cách mạng trong ý thức con người. Thế nhưng, tư duy của nhân loại nên được cách mạng như thế nào? Trong cuốn “Biến Động Lớn”, Laszlo có đề cập đến một loạt quan niệm cụ thể gọi là “năm tư duy sai lầm lớn”: “nguồn tài nguyên vô tận”, “cơ chế”, “bản chất con người là xấu xa”, “sự toàn năng của thị trường” và “chủ nghĩa tiêu dùng”… Ngoài ra còn có nhiều quan niệm sai lệch khác ít gây tranh cãi hơn như: đấu tranh giai cấp, chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa định mệnh, chủ nghĩa quốc gia tối thượng, lấy hiệu quả làm đầu, lấy công nghệ làm thước đo, “càng mới càng tốt”, lý tính kinh tế, tư tưởng “tương lai không liên quan đến tôi”, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, v.v. Liệu việc loại bỏ hoàn toàn những khái niệm này có phải là một cuộc cách mạng trong nhận thức con người không? Nếu đây là cách định nghĩa một cuộc cách mạng trong nhận thức, tôi tin rằng nó sẽ không bao giờ xảy ra. Bởi vì, những quan niệm nói trên không hoàn toàn là sai lầm tuyệt đối, mà trong một phạm vi tương đối nhất định, chúng vẫn có tính hợp lý của chúng. Xét từ nghĩa triết học, mọi quan niệm duy lý đều có tính tương đối, mà một cuộc “cách mạng” không thể xóa bỏ toàn bộ những điều mang tính tương đối. Nếu thật sự làm như vậy, thì tức là phủ định chính bản thân lý tính. Và nếu có một cuộc cách mạng đi đến phủ định lý tính, thì đó chẳng những không phải là hy vọng cho tương lai, mà ngược lại, sẽ trở thành một tai họa lớn hơn cho nhân loại trong tương lai. Tất nhiên, tôi không cho rằng Laszlo thật sự xem cuộc cách mạng này một cách đơn giản đến vậy. Nhưng rốt cuộc, “cách mạng” nên là gì? Ông Laszlo chỉ kêu gọi những khái niệm như “lý tính mới”, “nền văn minh toàn diện”, hay “sự tiến hóa toàn thể về nội hàm”, v.v., nhưng lại không chỉ ra rốt cuộc điều cần “phá bỏ” nhất hiện nay là gì, tức là cái gì đang thực sự ngăn cản tất cả những điều ấy? Là một người thuộc nền văn hóa phương Tây, ông không thể diễn đạt được điều đó. Giống như câu “không thấy rõ diện mạo núi Lư Sơn, chỉ vì đang đứng trong núi ấy”. Laszlo vẫn là một nhà duy lý phương Tây đang tìm kiếm “lý tính mới” bên trong chính hệ thống chủ nghĩa duy lý phương Tây. Vậy thì cái gọi là “lý tính mới” ấy sẽ xuất hiện bằng cách nào đây?
Giống như hai học giả đã đề cập, tôi cũng thấm nhuần lý tính phương Tây. Từ nhỏ, tôi đã được học về khoa học tự nhiên phương Tây, và ngay cả khi đã ngoài bốn mươi tuổi, tôi vẫn đắm chìm trong lý tính của khoa học và triết học phương Tây. Chỉ trong hai mươi năm trở lại đây, tôi mới chợt nhận ra mình vẫn là người Trung Quốc. Tại sao tôi không thấy nhiều tư duy Trung Quốc trong đầu mình? Phải chăng vì người Trung Quốc với 5.000 năm văn minh thực sự không để lại chút giá trị tri thức nào, hay tôi thực sự đã trở thành một “quả chuối vàng” (vàng ngoài da mà trắng trong lòng) quên mất nguồn cội? Chính trong sự thức tỉnh và trăn trở ấy, cùng với rất nhiều học giả Trung Quốc cảm thấy mình bị “mất ngôn ngữ”, đã dẫn dắt tôi tham gia vào quá trình suy ngẫm toàn diện và sâu sắc trong gần hai mươi năm. Chính vì sự suy ngẫm này mà, mặc dù tôi có nhiều điểm chung với các công trình của hai học giả đã đề cập, tôi cũng phát triển nhiều điểm khác biệt rõ ràng. Chìa khóa của sự khác biệt này nằm ở việc liệu người phương Đông, đặc biệt là người Trung Quốc, có thể sử dụng trí tuệ độc đáo của họ để tham gia vào quá trình suy ngẫm và thậm chí hành động nhằm tìm ra giải pháp cho sự “chia rẽ lớn” hay “biến động lớn” chung hiện nay của nhân loại hay không? Câu trả lời của tôi tất nhiên là có, và tôi sẽ bắt đầu từ chính mình. Câu hỏi vẫn là bằng cách nào?
Tôi đồng ý với quan điểm của Fukuyama rằng sự “chia rẽ lớn” bắt nguồn từ “bản chất con người”, nhưng Fukuyama lại không đưa ra một phân tích toàn diện và có hệ thống nào về bản chất thực sự của “bản chất con người”. Việc ông khẳng định rằng xã hội “tư bản chủ nghĩa” vẫn còn “sức sống mạnh mẽ” và tiếp tục là “nguồn gốc to lớn của sự phá bỏ và tái thiết” cho trật tự và chuẩn mực xã hội tương lai của nhân loại, cũng như cho rằng tương lai của nhân loại vẫn nằm trong khuôn khổ thể chế tư bản chủ nghĩa, cho thấy rõ rằng tư tưởng của ông vẫn bị trói buộc bởi truyền thống triết học phương Tây. Tôi cũng đồng ý với quan điểm của Laszlo rằng “biến động lớn” hiện nay bắt nguồn từ sự lỗi thời của chủ nghĩa duy lý, vốn từng mang lại thành công rực rỡ cho phương Tây trong quá khứ. Thế nhưng, những giả định của ông về “lý tính mới” lại chưa thực sự chạm đến căn nguyên chí tử của “lý tính cũ”. Về phương diện truy tìm cội nguồn trong quá khứ cũng như hướng tìm lời giải cho tương lai, tôi cho rằng bản thân mình với tư cách là một người phương Đông, đặc biệt là một người Trung Quốc sẽ có những góc nhìn độc đáo riêng.
Quan điểm chính của tôi là, bất luận là “Chia rẽ lớn” của Fukuyama hay “Biến động lớn” của Laszlo, hay dù đầu thế kỷ 21 có xuất hiện như một điểm phân kỳ quan trọng trong quá trình tiến hóa của loài người hay không, thì nguồn gốc sâu xa nhất của chúng đều bắt nguồn từ “cái chết của triết học phương Tây”.
Trong gần 200 năm qua, những thành công vĩ đại của xã hội phương Tây đều bắt nguồn từ thành công lớn lao của triết học phương Tây, và từ đó dẫn đến sự thành công của khoa học phương Tây và nền dân chủ phương Tây. Mà cốt lõi quan trọng nhất trong đó chính là sự thành công vượt bậc của tư duy logic phương Tây. Tuy nhiên, bước sang thế kỷ 21, cái giá to lớn mà nhân loại phải trả cho chuỗi thành công liên tiếp trong thời gian dài ấy lại bùng phát dữ dội trong thời gian ngắn, từ đó dẫn đến hiện tượng “chia rẽ lớn” và “biến động lớn” trong ba hệ sinh thái của thế giới loài người: sinh thái tự nhiên, sinh thái xã hội và sinh thái tinh thần. Điều này cũng kéo theo điểm phân kỳ tiến hóa mà Laszlo gọi là “ngưỡng tiến hóa tới hạn”. Nếu nhân loại vẫn tiếp tục đi theo con đường hiện tại, thì phía trước chỉ còn hai khả năng là “đại sụp đổ” hoặc là “đại chuyển biến”. Theo dự đoán của Laszlo, thời khắc đó sẽ xảy ra vào khoảng năm 2010.
Theo quan điểm của tôi, toàn thể nhân loại đang đứng trước một cuộc cách mạng mới về phương pháp tư duy, hay nói thẳng ra là một cuộc cách mạng về logic, và đối tượng đầu tiên bị ảnh hưởng chính là logic đối xứng nhị nguyên phương Tây. Cuối cùng, chìa khóa để giải quyết “chia rẽ lớn” và “biến động lớn” chính là phải đặt dấu chấm hết cho phương pháp tư duy logic đối xứng mang tính nhị nguyên mà người phương Tây đã hình thành trong thời gian dài. Chức năng của loại logic nhị nguyên đối xứng này đã được phát huy đến cực hạn trong các thao tác logic cơ bản của mạng máy tính hiện đại thông qua “1” và “0”. Nó có thể mô phỏng mọi dạng tồn tại của vật vô tri, nhưng lại gây ra mối đe dọa to lớn đối với các sinh vật sống, đặc biệt là những sinh vật có trí tuệ, tức là chính con người.
Ngược lại so với logic đối xứng nhị nguyên, tôi lấy cảm hứng từ triết lý cổ xưa của Trung Hoa trong “Âm Dương Ngũ Hành” và đề xuất một loại logic mới mang tính đa nguyên (chủ yếu là tam nguyên) là logic “Âm Dương Tam Hành” với đặc trưng là đối xứng và luân chuyển tuần hoàn. Tôi tin tưởng sâu sắc rằng đây mới chính là phương pháp tư duy hoàn toàn mới trong thế kỷ 21, có thể đồng thời quan tâm đến cả sự sống và trí tuệ của con người. Việc phổ biến phương pháp tư duy này không chỉ giúp xóa bỏ sự “chia rẽ lớn” và “biến động lớn” đầy tai họa do phương pháp tư duy logic đối xứng nhị nguyên đã gây ra trong suốt thời gian dài, mà còn có thể mang lại cho nhân loại một thế giới quan, nhân sinh quan và xã hội quan mới toàn diện hơn, tốt đẹp hơn, giúp con người sống trong hòa bình và phát triển bền vững.
Tôi cho rằng trên thực tế triết học phương Tây đã “chết” ngay từ thế kỷ trước, nhưng hệ logic của nó vẫn tiếp tục được sử dụng trong khoa học tự nhiên, đặc biệt là trong khoa học xã hội và khoa học tâm lý, qua đó tiếp tục tạo ra những quan niệm có hại cho nhân loại, dẫn đến những thảm họa không thể tránh khỏi. Những thảm họa này nói chung là sự hủy diệt của ba hệ sinh thái: sinh thái tự nhiên, sinh thái xã hội và sinh thái tinh thần. Người Trung Quốc chính là những người chịu ảnh hưởng đầu tiên và nghiêm trọng nhất. Do đó, cuộc cách mạng về tư duy này rất có thể sẽ bùng nổ đầu tiên trong cộng đồng người Trung Quốc. Tôi mong đợi ngày đó sẽ đến.
Đọc tiếp chương 36: