Giải thưởng này không giống như Lâm Vũ Tường tưởng tượng sẽ làm chấn động toàn Trung Quốc, thậm chí ngay cả tạo chút xôn xao trong trường cũng không đủ sức. Trước đó, Vũ Tường mong rằng “các báo lớn sẽ đồng loạt đưa tin”, nên cậu chăm chỉ lật báo liên tục, nhưng đáng giận là những tờ báo ấy lại quá bưng bít thông tin, chuyện trọng đại như vậy mà chẳng hề đăng. Lâm Vũ Tường thậm chí đọc cả quảng cáo không sót chữ nào, đến mức thành chuyên gia, nơi nào giảm giá ba phần, nơi nào chữa bệnh lậu đều rõ như lòng bàn tay. Nhưng chờ mãi mong có thể “rải rác thấy trên các mặt báo”, thế mà “các mặt báo” lại chẳng có rảnh mà đăng.
Sau khi thất vọng, Lâm Vũ Tường chỉ mong cả thị trấn biết cũng được rồi. Cậu nghĩ lần trước cái giải khối khoa học còn có chút uy lực, lần này giải khối văn chẳng biết sẽ gây náo động đến mức nào đây. Nhưng rõ ràng danh tiếng của khối văn không bằng khối khoa học, một tuần trôi qua, thị trấn vẫn yên tĩnh như cũ, không hề có dấu hiệu thay đổi gì.
Phản ứng thờ ơ của mọi người khiến Vũ Tường buồn lòng. Cuối cùng vẫn là Mã Đức Bảo phần nào thỏa mãn được lòng hư vinh của cậu, chuẩn bị tổ chức một buổi tuyên dương trên loa phát thanh cho cậu. Vũ Tường không dám tự lên loa, một là sợ căng thẳng, hai là tự mình khen mình cũng không hay, chi bằng để Mã Đức Bảo nói thay, như thế còn có thể khen cho to thêm một chút.
La Thiên Thành cũng thường đến chúc mừng Vũ Tường, nhưng rõ ràng những lời chúc ấy không phải lời xuất phát từ trái tim mà là từ “dạ dày”, chua đến mức khiến người ta ê răng, đúng là đặc trưng của thứ trào lên từ dạ dày. Nhưng dù sao đi nữa, lời “tán dương” của La Thiên Thành cũng có thể xem là “lời từ trong bụng” rồi.
Lâm Vũ Tường xua tay, liên tục nói: “Không có gì, không có gì đâu, không có gì lớn cả.” Trông như một người coi nhẹ danh lợi. Thật ra trên đời này người coi nhẹ danh lợi chỉ có hai loại: một loại là danh tiếng nhỏ đến mức muốn nổi cũng không nổi được, một loại là danh tiếng lớn đến mức không muốn nổi vẫn cứ nổi. Loại đầu là chẳng còn gì để quan tâm, loại sau là chẳng còn gì để ham muốn, cả hai đều “coi nhẹ” danh lợi. Nếu ai đó chỉ nổi tiếng ở mức độ vừa phải, họ sẽ không bao giờ thờ ơ với danh lợi. Lâm Vũ Tường chắc chắn thuộc loại thứ nhất, người tinh ý chỉ cần liếc qua là biết, nhưng nhà “tư tưởng lớn” La Thiên Thành lại không nghĩ ra.
Đồng thời, Lâm Vũ Tường nóng lòng mong Susan biết chuyện, hơn nữa phải là biết qua lời của người khác. Cậu thường sốt ruột hỏi Thẩm Khê Nhi xem Susan đã biết chưa, câu trả lời luôn là “chưa”. Bức thư bằng chữ Hán cổ kia cũng bặt vô âm tín, đến nay vẫn chưa có chút hồi âm nào. Từ lần đi thủy trấn về đến giờ, cậu chưa nói với Susan câu nào, nhưng điều đáng an ủi là Lương Tử Quân đã giải thích hiện tượng này một cách khoa học rằng “khi cậu quá thân với một cô gái, nói quá nhiều chuyện với cô ấy, ngược lại chỉ có thể làm bạn chứ không thể làm người yêu.” Chẳng trách người Trung Quốc tin rằng “lời không thể nói hết”, bởi nếu nói đến mức không còn gì để nói, thì sẽ không thể có bạn gái được nữa.
Dựa vào điểm đó để tự an ủi, Lâm Vũ Tường có thể mỉm cười hồi lâu mà không nói gì. Nụ cười quả thực là một bản năng của con người, giữa muôn thú thì chỉ có con người và con ngựa biết cười, vì trong “Quảng Dương Tạp Ký”: có câu “ngựa hí như cười”. Không lạ khi trong các chòm sao lại có chòm Nhân Mã. Đàn ông hễ nhìn thấy mỹ nữ thì trong lòng sẽ vô thức nở một nụ cười, nụ cười mang chút tà ý, nên có lẽ đàn ông được tiến hóa từ loài ngựa, còn phụ nữ thấy cây to thì lại muốn tựa vào hay trèo lên, đủ thấy phụ nữ đích thị là tiến hóa từ loài vượn khỉ mà ra. Mỗi lần đi ngang qua Susan, Lâm Vũ Tường luôn nhe răng cười, còn Susan thì đáp lại bằng một nụ cười chúm chím. Thành ra Lâm Vũ Tường chịu thiệt một hàm răng, trong lòng khó tránh khỏi cảm thấy có chút không cân bằng, luôn tìm cơ hội nói chuyện, hoặc tán gẫu về văn học, hoặc chuyện trò về lịch sử. Nhưng mỗi lần gặp nụ cười của Susan, bao nhiêu văn học lịch sử đều quên sạch. Sau đó cậu ta lại vô cùng hối hận.
May mà có Thẩm Khê Nhi ở đó. Thẩm Khê Nhi thường đi tìm Susan, tiện thể đem theo cả những lời của Lâm Vũ Tường liên quan đến cô ấy để chuyển giúp, vì vậy Lâm Vũ Tường đã biết điều hơn, có gì cứ nói với Thẩm Khê Nhi. Nhờ công vận chuyển ấy, Thẩm Khê Nhi thường được Lâm Vũ Tường khen thưởng, bim bim và thạch trái cây lúc nào cũng có phần.
Tâm trạng của Susan vốn nên là thứ trừu tượng khó nắm bắt, vậy mà khi nào Thẩm Khê Nhi đều có thể biểu đạt và thể hiện rõ ràng, giống như cọng rơm chỉ hướng gió. Vũ Tường khen cô ấy công lao to lớn. Nhưng Thẩm Khê Nhi lại rất kỳ lạ, lần này tin Lâm Vũ Tường giành giải quốc gia, cô ấy lại nhất quyết không chịu nói cho Susan biết.
Những ngày sau khi nhận giải, Mã Đức Bảo và Lâm Vũ Tường thân thiết không rời. Mã Đức Bảo thu nhận được một học trò giỏi mới biết rằng hóa ra nhận đệ tử là một việc rất vui. Chẳng trách Socrates hay Khổng Tử đều thu đồ đệ, đồ đệ thất bại là vì bản thân đồ đệ không cố gắng, còn đồ đệ thành công thì chính là “thầy giỏi dạy trò giỏi”. Thu nhận nhiều học trò rồi truyền dạy kiến thức cho họ cũng giống như gửi tiền vào ngân hàng, chắc chắn chỉ có lời mà không lỗ.
Lâm Vũ Tường chỉ vì muốn báo đáp ân tri ngộ. Vì những thứ Mã Đức Bảo dạy, dù là cho kỳ thi tốt nghiệp cấp hai hay kỳ thi đại học, đều chỉ có thể đứng ngoài mà nhìn. Nói cách khác, những thứ ấy đều vô dụng cả.
Mã Đức Bảo đưa cho Lâm Vũ Tường xem bản thảo tập tản văn mới của mình. Tên sách là “Giấc mộng và hiện thực – Ngày mai của ngày mai của ngày mai”, rất thu hút người đọc. Trong lời tựa, Mã Đức Bảo nói rằng ông đã “trải qua một cuộc đời đầy thăng trầm” và “chưa đọc nhiều sách nhưng đã có nhiều hiểu biết sâu sắc”.
Lâm Vũ Tường rất ngạc nhiên. Những câu chữ này không phù hợp với tính cách kiêu ngạo của Mã Đức Bảo. Lâm Vũ Tường bối rối hồi lâu, cuối cùng mới hiểu ra rằng người ta có thể tâng bốc “con ngựa” (Mã), còn “con ngựa” thì không thể tự tâng bốc mình. Vì vậy cậu nói nịnh rằng: “Thầy Mã thật giỏi. Bài viết rất hoa mỹ!”
Mã Đức Bảo từ chối: “Chỉ bình thường thôi. Cậu là một học trò khiến thầy rất tự hào!”
“Dạ…thật sao ạ?”
“Cậu rất có năng lực!”
Vũ Tường được khen đến mức ngại ngùng.
Mã Đức Bảo lại giới thiệu về bản thảo sách sắp in của mình: “Nhà xuất bản đang thúc ép tôi rất nhiều về cuốn sách này. Tôi dự định sẽ gửi nó vào thứ Bảy này. Ây dà, họ đang gây áp lực cho tôi quá. Thực ra viết lách phải xuất phát từ cảm xúc chân thành, viết vội vàng thì không hay. Tôi khá hài lòng với mấy bài đầu, nhưng những bài sau thì không được như vậy. À mà cũng không phải ý của tôi. Độc giả thích chúng, nhưng nếu ai đó nói những bài sau hay, thì mức độ đánh giá của người đó là…”
Lâm Vũ Tường vừa lật đến bài “Linh hồn thơ ca của sông Cam” (ND: sông Cam là con sông chính chảy qua Cambridge ở miền Đông nước Anh), vừa mở miệng định khen ngợi vẻ đẹp của nó thì câu cuối cùng của Mã Đức Bảo làm cậu giật mình đến nỗi không kịp ngậm miệng lại. Nhưng màn đã kéo lên, các diễn viên phải xuất hiện, nên cậu đành phải nói: “Tác phẩm sau này của thầy Mã thật ra cũng khá hay, dù sao thì mỗi người đều có cách lý giải riêng!”
“Cũng đúng. À đúng rồi, Lâm Vũ Tường à, bài viết của cậu, bài giành giải nhất toàn quốc ấy, khi gửi lên Bắc Kinh tôi cũng đã gửi đến tạp chí “Tuyển tập những bài văn xuất sắc toàn quốc” ở Quảng Châu, bài này đã được đăng trong số này, cậu mang về đi, đây là bản sách mẫu, gửi ở chỗ tôi.”
Lâm Vũ Tường gần đây cứ hết niềm vui này lại gặp niềm vui khác. Cậu sốt ruột nhận cuốn sách tuyển tập bài văn, nghĩ rằng “Tuyển tập những bài văn xuất sắc toàn quốc” hẳn phải tầm cỡ cao, nào ngờ cảm giác khi cầm lại khác thường, nhìn kỹ mới thấy giấy tờ kém chất lượng, dựa vào lời dạy của cha là biên tập viên, cậu đoán chắc tạp chí này cả về số lượng phát hành lẫn ảnh hưởng đều rất nhỏ. Tên thì oai vệ như vậy, mới thấy người Trung Hoa quả thật nổi tiếng yêu nước đến mức nào, tạp chí bé tẹo cũng muốn đội danh toàn quốc. Đột nhiên cậu cũng sinh nghi về cuộc thi viết văn toàn quốc, nhưng nghi ngờ nhanh chóng qua đi, nghĩ rằng chắc không có giả mạo.
Mã Đức Bảo nói: “Gần đây cậu thu được nhiều thành tựu nhỉ.”
“Dạ dạ, đúng vậy, cảm ơn thầy Mã.”
“Đừng nói vậy, thầy Mã cũng chỉ làm tròn trách nhiệm của một người thầy thôi, cậu thấy có phải không?”
“Dạ, cái này, sau này em phải học hỏi thầy Mã nhiều về cách sáng tác tản văn.” Lâm Vũ Tường nói.
Mã Đức Bảo rốt cuộc cũng đã dày dạn trên văn đàn, mặt dày như bản thảo, nói: “Ha ha, vậy là phong cách của thầy Mã sẽ được truyền lại rồi! Nhưng gần đây cậu vẫn phải nhanh chóng ôn tập để chuẩn bị cho kỳ thi, cái đầu cậu thế này mà không đỗ vào trường điểm Nam Tam Trung của thành phố thì thật đáng tiếc! Thôi, cậu về ôn tập đi.”
Sau khi về nhà, Lâm Vũ Tường xem kỹ cuốn “Tuyển tập những bài văn xuất sắc toàn quốc” thì không khỏi thất vọng. Bài văn hay của cậu nằm thứ tám, vị trí ở giữa. Tiếc rằng loại tạp chí này không giống con cá béo, càng ở giữa càng được ưa chuộng. Cuốn sách nhỏ này chú trọng vào phần đầu và phần cuối, với các bài viết nổi bật ở đầu và lời khuyên sinh lý ở cuối, cả hai đều hấp dẫn. Vũ Tường đọc lại bài viết đạt giải nhất quốc gia của mình thì cảm thấy lạ lẫm. Dưới bài còn có nhận xét của danh gia, danh gia này đề tên là Bác Ngọc, tức là tên hiệu của Trần Tử Ngang đầu thời Đường. Tính sơ qua, ông ấy đã sống lâu hơn nghìn năm tuổi. Theo truyền thuyết, Bành Tổ sống tới tám trăm tuổi, thì phải gọi ông ấy là cha của cha của cha của cha. Bác Ngọc đã tu luyện cả nghìn năm nên nhận xét cũng đặc biệt tinh giản, chỉ hai dòng, nói rằng bài văn của Vũ Tường có “lối viết táo bạo nhưng vẫn tiết chế, thể hiện phong thái của một bậc thầy. Tuy nhiên, cấu trúc vẫn cần được trau chuốt thêm.”
Mẹ Lâm thấy con trai mình có bài văn được đăng, vui sướng như vừa hòa được một ván bài lớn. Bà đọc đi đọc lại bài văn nhiều lần, nói rằng cả cuốn sách chỉ có bài của con trai là hay nhất. Bà mang đến nơi làm việc sao chụp gần mười bản, phát cho bạn đánh bạc và bạn bè, thực ra chỉ có bạn đánh bạc và một bản gửi cho cô giáo dạy tiểu học của Lâm Vũ Tường. Cha Lâm đang công tác ở Vân Nam, gọi điện đường dài về nhà, mẹ Lâm liền báo tin vui. Cô giáo dạy Ngữ văn tiểu học của Lâm Vũ Tường phản ứng rất nhanh, trả lời thư rằng Lâm Vũ Tường trời sinh thông minh, từ trước đã dự đoán sẽ có ngày này.
Vũ Tường gửi một bản sao cho Susan. Sau khi gửi, cậu lại níu lấy Thẩm Khê Nhi hỏi phản ứng của Susan. Gần đây Thẩm Khê Nhi vì album “Đi khắp nơi để lưu tình” của Trương Tín Triết bị chỉ trích nên không vui, nghiêm khắc trách Lâm Vũ Tường hèn nhát, không dám trực tiếp trao thư. Lâm Vũ Tường biện bạch rằng “Gửi tình, gửi tình,” lý do chính là ở câu này, tình cảm là để gửi đi, gửi đi mới được gọi là tình cảm.
Thẩm Khê Nhi chửi cậu ta láu cá, còn bịa chuyện Susan đã có người khác, người đó trông giống Takashi Kashiwabara, hiện đang học khoa Anh văn ở Đại học Sư phạm Hoa Đông, thì bị Vũ Tường chửi là ngớ ngẩn. Bực quá, cô lại bịa thêm rằng ngoài người kia Susan còn có thêm một người nữa, người đó trông giống Yosuke Eguchi, học khoa Toán ở Đại học Sư phạm Hoa Đông. Vũ Tường và Thẩm Khê Nhi chia tay trong sự bất hòa.
Lâm Vũ Tường miệng nói không thể nào, nhưng trong lòng sợ hãi vô cùng, tự an ủi rằng hai người đàn ông Nhật chắc chắn sẽ xảy ra xung đột, nhưng chợt nghĩ tới, võ sĩ phương Đông không giống võ sĩ châu Âu, sẽ không vì một người phụ nữ mà quyết đấu. Hai người chắc chắn sẽ sống hòa bình với nhau. Trên con đường tình cảm, cậu vấp ngã liên tiếp hai lần, thương tích không nhẹ.
Chẳng hiểu sao chiều đó cậu lại thấy trên tạp chí điện ảnh có ảnh Takashi Kashiwabara và Yosuke Eguchi, cậu mở mắt trừng trừng, ghen tuông với hai người họ. Rồi lại bi quan nghĩ đến việc viết bài văn tưởng niệm cho mối tình này.
Thẩm Khê Nhi nói lại với cậu rằng việc đó là giả, vì cô sợ Lâm Vũ Tường tìm cách tự vẫn. Nói ra rồi lại hối hận, cô nghĩ để Lâm Vũ Tường còn sống trên đời cũng là một mối uy hiếp đối với vai trò cán sự môn Ngữ văn của cô. Lâm Vũ Tường vui mừng đến mức nhảy cẫng lên.
Trong giờ tự học, cậu chạy đến phòng bảo vệ xem thư, vừa nhìn đã giật mình, thấy có hơn hai mươi bức thư gửi cho Lâm Vũ Tường. Thế là cậu mang theo thắc mắc cùng một đống thư vào lớp. Vào lớp không khỏi khoe khoang. Đôi khi có nhiều thư còn vui hơn có nhiều tiền, vì tiền có thể kiếm được, còn thư thì không dễ kiếm ra được. Bạn bè ngạc nhiên, tưởng Lâm Vũ Tường đăng thông báo tìm bạn trăm năm. Lâm Vũ Tường tự hào mở thư ra.
Mở bức thư đầu tiên mới biết lý do, những người này gửi thư là vì đã đọc bài viết của Lâm Vũ Tường. Bức thư đầu tiên viết rất súc tích, không dài dòng, đi thẳng vào mục đích:
“Tôi đã đọc bài viết của cậu, thấy rất hay, nếu muốn làm bạn viết thư với tôi thì hồi âm nhé, địa chỉ là…”
Bức thư thứ hai gửi từ tận Nội Mông, có thể thấy thư đã trải qua một hành trình dài, thêm điều kiện khí hậu không thuận lợi, nóng bức và mệt mỏi, giống như con chó giữa mùa hè nặng nhọc, há miệng thè lưỡi, phong bì thư đã mở, giấy thư lộ ra ngoài. Nội dung thư mang trọn phong cách thảo nguyên Nội Mông, dài vô biên:
“Đừng tưởng tôi là người nông thôn nhé, tôi là người thành phố. Cha tôi là giáo viên, mẹ là nội trợ. Em gái tôi năm nay ba tuổi, đang lên kế hoạch cho cô bé đi học mầm non! Ở các cậu có gọi là mầm non không? Thượng Hải là một đô thị phồn hoa, khiến tôi tràn đầy khao khát và tưởng tượng…”
Thư dài mấy nghìn chữ, chứa đủ cả thiên văn địa lý. Lúc này Vũ Tường mới hiểu, thư tuy không thể kiếm ra tiền nhưng có thể được tạo ra, tất nhiên là được tạo ra kiểu hư cấu như bài văn của học sinh, và cậu quyết định không hồi âm. Lúc này, cậu lần đầu cảm nhận được ưu thế sau khi nổi tiếng.
Những bức thư sau hầu hết có nội dung kiểu như vài bức thư trên, bao quát khắp các vùng của Trung Quốc. Quảng Đông là vùng quê hương của cậu nên có đến mười bức. Người gửi đều đã đọc “Tuyển tập những bài văn xuất sắc toàn quốc”, lại trích lời khen ngợi của Bác Ngọc, chẳng có gì mới mẻ. Vũ Tường nhận ra văn phong hiện đại vẫn phân biệt Nam Bắc. Người phương Nam thì uyển chuyển, thư nào cũng rắc đủ muối mắm, dầu dấm, còn người phương Bắc thì giọng văn hùng hồn, giống như dáng vẻ đang đe dọa “cậu nhất định phải hồi âm!” Vũ Tường cảm thấy may mắn vì mình ở Thượng Hải, không thuộc Nam cũng không thuộc Bắc. Nhưng khi mở một bức thư của người cùng thành phố thì may mắn chợt tan biến. Văn phong Thượng Hải vừa mang sự đe dọa của phương Bắc vừa có sự xúi giục của phương Nam. Hơn nữa, người đó quả xứng là người da vàng lớn lên nhờ uống nước sông Hoàng Phố nên sở hữu gấp đôi cái “vàng”, ẩn dụ khéo léo nói bài văn của Vũ Tường không có dấu vết cưỡng bức chữ nghĩa, mà vẫn có sự phấn khích như xuất tinh sớm. Sau đó, Hoàng Thủy Đông lại dẫn rằng phép ẩn dụ khéo léo này đến từ Đổng Kiều người Đài Loan. Đổng Kiều, sinh năm 1942, tên thật là Đổng Tồn Tước, quê ở Tấn Giang, Phúc Kiến. Ông đã làm việc trong ngành báo chí và xuất bản ở Hồng Kông và Anh trong một thời gian dài. Ông đã viết một số tập tiểu luận, rất phù hợp với phong cách của Đổng Kiều. Lâm Vũ Tường không biết “Đổng Kiều” là chỗ nào, đoán là ở vùng do Quốc Dân Đảng kiểm soát, không có cầu của đạo gia, nghi ngờ là phát âm sai của “Khổng Kiều” (ND: cầu Khổng Tử), vì Quốc Dân Đảng tôn sùng Nho giáo… Vì không thể xác định được nên bức thư của “bạn cùng thành phố” cũng đành cất đi.
Chỉ còn lại ba bức thư chưa mở. Bức thư thứ ba từ cuối lên khiến người ta sững sờ, nó đến từ “Học viện văn học Lỗ Tấn” ở thủ đô. Tên tuổi Lỗ Tấn vẫn còn uy lực, nó khiến Lâm Vũ Tường thấy chấn động. Lấy thư ra, cậu lập tức bị lỗi phán đoán của “viện sĩ” viện văn học tạt vào mặt. Chữ viết tay “Lâm Vũ Tường” được điền vào sau khi phần chữ in sẵn “ông” bị gạch bỏ, và giữ lại chữ “cô”. Thư gửi “cô Lâm Vũ Tường” như sau:
“Học viện chúng tôi là nơi bồi dượng các nhà văn trẻ, là mảnh đất đất lý tưởng cho các thiếu niên yêu văn học. Ở đây, các tài tử, tài nữ từ khắp mọi miền tổ quốc tụ hội, trao đổi lẫn nhau. Những nhà văn nổi tiếng như ×××, ×××, v.v., đều là những nhân tài xuất sắc xuất thân từ học viện của chúng tôi.
Học viện chúng tôi có trình độ quản lý cao, nhằm mục đích truyền bá văn học Trung Quốc. Bạn thật may mắn đã được các giáo sư của học viện để mắt tới. Học viện gửi thư này để thông báo rằng trình độ văn học của bạn đã có nền tảng tương đối vững. Nhưng vẫn cần chỉ dẫn của các chuyên gia mới có thể tiến bộ hơn nữa.
Học viện áp dụng phương thức học qua thư, học phí là 180 tệ mỗi học kỳ (nửa năm), học viện có giáo trình tự biên soạn. Mỗi học kỳ, bạn phải nộp hai bài tập trên 1.000 chữ (không giới hạn thể loại, thơ tối đa 30 dòng), do các giáo viên danh tiếng chấm điểm, các tác phẩm xuất sắc sẽ được giới thiệu tới các tạp chí và báo chí uy tín như “Tuyển tập những bài văn xuất sắc toàn quốc”, “Tuyển tập những bài văn xuất sắc”, “Tuyển tập bài văn học sinh trung học toàn quốc”. Mỗi học kỳ sẽ gửi cho học viên sổ liên lạc.
Vui lòng gửi tiền học về ×××××××, tuyệt đối không gửi kèm tiền trong thư. Chúc bạn thành công trong việc hiện thực hóa ước mơ trở thành nhà văn! Chúng tôi sẽ giúp bạn đạt được ước mơ đó!”
Lâm Vũ Tường lại khó mà quyết định, chuẩn bị mang về nhà để cha xem qua. Bức thư áp chót lại càng đáng sợ hơn:
“Xin chào. Nhận được thư bất ngờ như thế này hẳn bạn sẽ cảm thấy rất kỳ lạ nhỉ! Tôi là một tri kỷ ở phương xa của bạn, lặng lẽ dõi theo bạn, ánh nhìn thì lại quá xa, đến nỗi mệt mỏi. Thế nên tôi quyết định phải viết thư. Bức thư này có lẽ chẳng có gì nhiều để nói, nhưng tôi đã không thể cưỡng lại việc viết nó, và thậm chí còn gửi nó đi. Phần lớn là vì bài văn của bạn quá tuyệt! Nếu bạn có thời gian, xin hãy hồi âm.”
Lâm Vũ Tường đọc xong thì giật thót, tưởng rằng chính linh hồn của Lỗ Tấn từ trời cao đã gửi thư đến, nhìn xuống phần ký tên thì thấy cũng chẳng khác Lỗ Tấn là mấy. Tên là Chu Thụ Nhân, phía sau còn ghi chú đó là bút danh, đến từ một trường trung học nào đó ở Hồ Bắc. Anh Thụ Nhân, đáng tiếc là anh sinh ra muộn một trăm năm hoặc sớm một trăm năm. Lâm Vũ Tường chợt nghĩ, có khi người này chính là một trong những học viên mà “Học viện văn học Lỗ Tấn” có thể tự hào rằng đã “đào tạo” ra, liền lập tức bật cười.
Lá thư cuối cùng nét chữ mềm mại thanh tú, trông quen quen. Lâm Vũ Tường nhìn chằm chặp một lúc thì suýt nữa kêu thành tiếng. Lá thư cuối cùng này đúng là quan trọng nhất, đến từ Susan. Lâm Vũ Tường vội vàng bóc thư, cẩn thận lấy tờ giấy bên trong ra. Nội dung thư cũng không khác mấy so với lá thư trước, khuyên Lâm Vũ Tường phải chăm chỉ học tập, lại thêm vài câu khen ngợi bài văn. Chỉ mấy chục chữ mà cậu đọc đi đọc lại nhiều lần, ánh mắt thì như muốn dán chặt vào đó, may mà những dòng chữ ấy không biết đỏ mặt, nếu không chắc xấu hổ mà chết mất.
Chuyến đi đến phòng bảo vệ này thật là đáng giá, nếu những lá thư này rơi vào tay giáo viên chủ nhiệm thì hậu quả thật là khó lường. Lâm Vũ Tường thu hoạch lớn rồi quay về nhà, trên đường bỗng nảy sinh lòng kính trọng đối với cuốn tạp chí nát bét kia, vốn tưởng rằng lượng phát hành của nó chỉ hai ba chục quyển, xem ra thì không chỉ có vậy. Rõ ràng những bài văn dở hơi kia tuy vừa ngu vừa ngốc, nhưng phía sau vẫn còn một đám học sinh còn ngu ngốc hơn, những người thậm chí không thể viết được những bài văn tệ hại như vậy.
Mẹ Lâm thấy lời mời của Học viện Văn học Lỗ Tấn thì ra sức khuyên Vũ Tường tham gia. Thực ra bà chẳng hề yêu thích Lỗ Tấn, chỉ là bị sách vở của thời đó ảnh hưởng nên hận Lương Thực Thu đến nghiến răng nghiến lợi, trích dẫn một triết lý quân sự: “Kẻ thù của kẻ thù chính là bạn của ta”. Vì vậy, đã là học viện của “bạn” gửi thư mời thì nhất định phải nể mặt. Bà còn báo tin vui cho cha Lâm, mà gần đây cha Lâm với mẹ Lâm lại đang có chút mâu thuẫn. Theo logic thì “bạn của kẻ thù chính là kẻ thù của ta”, nên ông kiên quyết phản đối, nói nhất định là lừa tiền.
Tối hôm đó là một buổi học thêm toán. Thầy dạy toán là một ông già rất vui tính, chỉ có điều bị nặng tai, nhưng nặng tai cũng là một loại phúc của giáo viên. Ông là giáo viên cao cấp đã nghỉ hưu, nhưng nói trắng ra thì bây giờ có cái danh “cao cấp” cũng chẳng hiếm, trên đó còn có “cấp đặc biệt”, biết đâu vài ngày nữa lại sắp xuất hiện cả “giáo viên siêu cấp” cũng nên. Vị giáo viên cao cấp này rất am hiểu toán học, ngày đêm kề cận toán, lông mày bên phải của ông mọc thành một đường parabol chuẩn, lông mày bên trái lại như dấu căn bậc hai, thị lực dưới dấu căn ấy đã bị khai căn mấy lần liền, yếu ớt đến mức phải nhờ cặp kính tám trăm độ mới phục hồi được. Ông vô cùng yêu thương học sinh, đối xử với học sinh bằng sự dịu dàng như ông dành cho toán học, vậy mà học sinh lại đối xử với ông bằng sự chà đạp như dành cho văn học. Buổi phụ đạo lần này cũng y như thế, chẳng ai thèm nghe bài giảng của ông.
Trong giờ nghỉ, Lâm Vũ Tường đem toàn bộ những bức thư nhận được khoe cho Lương Tử Quân xem. Lương Tử Quân chọn vài bức có nét chữ xấu nhất, nói rằng những bức này đáng để hồi âm. Lâm Vũ Tường hỏi lý do, Lương Tử Quân liền mượn lời của thầy toán mà nói một câu dí dỏm: nhìn chung mà nói, sắc đẹp của nữ giới và nét chữ có quan hệ nghịch biến, người càng xinh đẹp thì chữ càng xấu.
Lâm Vũ Tường lại bị thuyết phục, cùng Lương Tử Quân bắt tay vào một đề tài nghiên cứu mới, hai người say mê nghiên cứu không mệt mỏi, kết quả rất khả quan. Kết luận cuối cùng là Susan là một cô gái phi thường, tần suất xuất hiện cũng như các nhà văn vĩ đại, mỗi năm tram năm mới có một người. Lâm Vũ Tường cảm thấy vô cùng quý trọng. Lương Tử Quân hỏi số điện thoại của cô, Vũ Tường cảnh giác nói rằng không biết.
Thất vọng, Lương Tử Quân ngồi ước lượng giá trị của những lá thư trong tay, dự định hôm khác đem bán. Lâm Vũ Tường ngạc nhiên hỏi: thư cũng có thể bán được à? Lương Tử Quân nói: “Người bây giờ bề ngoài có vẻ chơi bời phóng túng, nhưng trong lòng quá trống rỗng! Loại thư này ít nhất có thể bán năm sáu tệ một bức, chẳng lẽ cậu không thấy bây giờ trên các tạp chí có rất nhiều quảng cáo tìm bạn viết thư à?”
“Ừ.”
“Tất cả đều cho tôi à?”
“Không vấn đề gì!”
Thầy giáo toán già quá rồi, cơ thể nửa phần như đã lên thiên đàng. Đầu ông cũng thường xuyên đau. Ông lưu luyến không chịu về, nói rằng muốn dạy bù đủ hai tiếng rưỡi. Bạch Bàn Cao sợ vị thầy giáo già này lâm bệnh chết ngay tại chỗ, việc thu thi thể sẽ rất phiền phức, nên không dám để ông ở lâu, nhẹ nhàng tiễn đi.
Mới bảy giờ rưỡi. Lương Tử Quân rủ Lâm Vũ Tường đi “nhà ma”. Vũ Tường suy nghĩ thấy còn sớm, cha không có nhà, mẹ chắc đi đánh bạc rồi, mà bà có nhà hay không cũng như nhau. Bỗng nhiên can đảm thêm ba tấc, nói: “Đi thôi!”
“Cậu biết ngôi nhà ma ở đâu chứ?”
“Không biết.”
“Cậu thật phí đời quá, một nơi nổi tiếng như vậy mà cũng không biết!” Lương Tử Quân trêu chọc nói.
Lâm Vũ Tường vừa cảm thấy ấm ức vừa tự ti, tự nhiên nảy sinh một cảm giác như đang xem danh sách người nổi tiếng. Cậu hỏi: “Nơi đó từng có ma ám à?”
“Ma cái đầu cậu, ma đâu mà ma, chỉ đáng sợ một chút thôi!”
“Đáng sợ như thế nào?”
“Tôi phải nói sao nhỉ? Nơi này nằm trong một ngõ nhỏ, nhà bị đổ nát, giống như những căn nhà cũ từ rất lâu rồi, nửa đêm thường có tiếng ma kêu, là tiếng kêu quái dị.”
Vừa dứt lời, một cơn gió lạnh như mọc tai, thổi tới đúng lúc. Lâm Vũ Tường vừa lạnh vừa sợ, chưa thấy ngôi nhà ma đã run rẩy.
“Cậu dám đi không?”
“Tôi…dám!”
Hai người lái xe đến dưới cầu Nhật Lạc. Đó là một khu dân cư cũ, Lâm Vũ Tường nhiều năm không đến. Con đường bỗng nhiên hẹp lại. Trên trời không có sao hay trăng, khiến bầu đêm càng thêm u tịch.
Lương Tử Quân làm hướng dẫn: “Sắp tới rồi.”
Lâm Vũ Tường lập tức như có đôi tai của sói, thu nhận âm thanh từ bốn phía. Cậu không nghe thấy tiếng ma kêu.
Lương Tử Quân dẫn chứng các truyền thuyết để dọa: “Theo truyền thuyết, nơi này từng có bốn nông dân bị người Nhật chôn sống, chết rất thảm, đến tối thì xuất hiện tụ tập trong ngôi nhà ma. Nghe nói, bốn con ma này chuyên quản sinh, lão, bệnh, tử của dân trong thị trấn. Còn có người từng thấy, mắt chúng đỏ. Người đó vài ngày sau chết, toàn thân xanh lè, não nát hết! Kinh khủng lắm!”
Lâm Vũ Tường da gà nổi lên từng chỗ, đôi tai sói càng nhạy bén hơn, chỉ nghe thấy tiếng lá rơi xào xạc và tiếng gió, một câu thơ cổ hiện lên theo cảnh vật, tràn vào ký ức của Lâm Vũ Tường…“ Tiếng hát buồn thảm của những hồn ma vang vọng trong đêm vắng”.
Nghe kỹ nửa buổi, mơ hồ nghe thấy tiếng bài mạt chược. Nơi tối tăm đáng sợ này, lại vừa là nơi mà những kẻ cờ bạc thích, không biết chừng bốn con ma kia cũng đang tụ tập chơi mạt chược.
Lâm Vũ Tường đổi đề tài tránh ma: “Nơi này có nhiều người đánh bạc quá nhỉ!”
Lương Tử Quân: “Ừ, không phải là quá nhiều, giống như…” Lúc đầu cậu ta muốn so sánh như những vì sao trên trời, nhưng ngẩng đầu lên thấy sao trên trời cũng e ngại bị bôi nhọ thanh danh của mình nếu dùng để ví với mấy kẻ cờ bạc, đến một vì sao cũng không có, nên vội vàng đổi lời: “Nhiều đến không đếm được!”
“À, kẻ cờ bạc gặp ma, vừa vặn là cờ bạc ma.”
“Đại văn hào, đừng chơi chữ nữa!”
Lâm Vũ Tường chợt nhận ra từ “cờ bạc ma” bị dùng sai. Ma quỷ chắc chắn sẽ không đồng tình, bởi vì cờ bạc cũng giống như một trò cá cược, như kiểu nếu A hỏi B: “Anh cá cược cái gì?” và B trả lời: “Tôi cá cược ma”. Tuy vẫn đúng ngữ pháp, nhưng nên đổi lại là “ma cờ bạc” thì đúng hơn.
Ngay lúc Lâm Vũ Tường định nói cho Lương Tử Quân biết ý tưởng tuyệt vời của mình, Lương Tử Quân đột nhiên đạp phanh và nói: “Xuống xe đi, chúng ta đến rồi!”
Lâm Vũ Tường căng thẳng đến nỗi quên mất “nhận định kẻ cờ bạc” vốn dùng để trấn tĩnh. Dừng xe, khóa cẩn thận, nhìn quanh chỉ thấy mấy căn nhà cũ, bèn hỏi: “Vậy là đến nhà ma?”
“Đừng vội, đi vào cái ngõ kia…” Lương Tử Quân chỉ tay về phía cái ngõ tối om phía sau. Lâm Vũ Tường ngoảnh lại nhìn, trong chốc lát toàn thân dựng cả tóc gáy. Cái ngõ ấy như lối vào địa ngục, so với bóng tối của nó, đêm bên ngoài cũng như muốn hãnh diện mà tuyên bố: “Ta là ban ngày.”
Lâm Vũ Tường theo Lương Tử Quân đi vào ngõ, lập tức cảm thấy bước chân nặng nề, nhưng vì sĩ diện vẫn phải khó nhọc bước tiếp. Xung quanh tối đến mức tay áp vào mũi cũng không thấy hình dáng gì, như thể mọi ánh sáng đều nhút nhát như Vũ Tường mà lại không sĩ diện bằng cậu, đều không dám bén mảng vào khoảng tối này.
Lo lắng hồi hộp không biết đã đi bao lâu, bỗng nhiên trước mắt có cảm giác gì đó. Hai con mắt ngủ yên cả nửa ngày cuối cùng cũng bắt được luồng sáng và vồ lấy nó như mèo đói rình chuột.
Nhìn kỹ thứ trước mắt, chân của Lâm Vũ Tường gần như muốn mềm nhũn. Tòa nhà đổ nát ấy sừng sững giữa một sân lớn, một nửa đã sụp đổ, chỉ còn để lại cầu thang trơ trọi. Tòa nhà này trước giải phóng từng là nhà thờ, sau giải phóng dùng làm bệnh viện, và đã đổ nát hơn mười năm. Tóm lại, dù làm nhà thờ hay làm bệnh viện, nó đều là một nơi gây hại cho người ta. Sập rồi lại càng làm người ta bất an. Lâm Vũ Tường không biết lý lịch của tòa nhà này, cứ ngỡ rằng nó từ trên trời rơi xuống, lại càng khiến mình thêm sợ hãi. Lâm Vũ Tường dựa vào tòa nhà đổ nát, run giọng nói: “Có gì mà phải sợ chứ?”
“Không sợ thì lên trên đi!”
Lâm Vũ Tường nghe nói phải lên lầu thì chần chừ không dám bước.
Lương Tử Quân nói: “Cậu sợ rồi à?”
Lâm Vũ Tường liếc nhìn tòa nhà ma đứng sừng sững trong đêm tối lạnh lẽo, lập tức sợ đến mức bản thân như biến mất, nói: “Chuyện… chuyện này nguy hiểm lắm chứ…”
“Nguy hiểm gì! Nhìn cậu như đàn bà ấy, đi thôi!” Lương Tử Quân kéo Lâm Vũ Tường lên lầu. Cầu thang thực ra vẫn gắn khá chắc với mặt sàn, nhưng trông như thể lơ lửng giữa không trung. Mới bước được mấy bậc, trên lầu đã vang lên tiếng động và tiếng bước chân. Lương Tử Quân sợ đến toàn thân run lên, quát: “Ai đó!” Hồn vía của Lâm Vũ Tường còn như đông cứng lại, ngay cả động tác biểu thị kinh ngạc cũng tiết kiệm luôn, đứng chết trân tại chỗ.
Ma trên lầu cũng bị dọa giật mình, phải nói là giật mình đến bốn lần. Có người cất tiếng: “Mấy người là ai?”
Tim của Lương Tử Quân cuối cùng cũng nới lỏng, thở phào một hơi dài. Hồn vía của Lâm Vũ Tường rốt cuộc cũng đuổi kịp cơ thể, mồ hôi lạnh túa ra toàn thân. Cậu nghe thấy giọng Thượng Hải đặc sệt, trong lòng liền thả lỏng phần nào, ít nhất cũng là người. Cho dù phía trên là ma, thì cũng là ma Thượng Hải, đưa ít tiền chắc là đuổi được.
Lương Tử Quân ngập ngừng hỏi: “Anh… anh là… lão K?”
“Ủa? Anh… Lương Tử Quân!”
Phía trên đã có phản ứng. Lâm Vũ Tường giật mình kinh hãi, mới biết ra rằng mối quan hệ của Lương Tử Quân không chỉ trải rộng khắp các vùng miền mà còn xuống đến địa ngục. Người tên là lão K xuất hiện từ cửa cầu thang, mạnh mẽ vỗ vai Lương Tử Quân. Lương Tử Quân giới thiệu: “Bạn tôi, tên là lão K, học ở trường nghề!”
“Hắn là huynh đệ của cậu à?” lão K khinh khỉnh chỉ vào Lâm Vũ Tường hỏi.
“Không, là bạn cùng lớp của tôi,” Lương Tử Quân đáp.
Lương Tử Quân và chàng trai tóc dài trước mặt là lão K chơi với nhau từ nhỏ, vừa chơi vừa đánh nhau từ bé đến lớn. Lão K rèn luyện được võ công cao cường, tung hoành ngang dọc, ở thị trấn không ai sánh bằng, nhưng thành tích học tập lại hơi hơi nhỉnh hơn Lương Tử Quân, nên lên được trường trung học nghề. Lương Tử Quân và hắn có tình bạn sâu sắc. Nhưng vì Lương Tử Quân chọn con đường khác, sa đà vào sắc đẹp, thành tích học tập tụt dốc, nên phải lưu ban một năm, không còn cơ hội kề vai sát cánh với lão K. Khi lão K vào trường nghề ở huyện, bận rộn với việc đánh nhau và dạy dỗ người khác, lịch trình kín mít, nên không có thời gian về thị trấn. Lương Tử Quân và hắn đã hơn một tháng chưa gặp, lần gặp gỡ bất ngờ này tất nhiên vô cùng xúc động. Hai người nói chuyện rôm rả, bỏ mặc Lâm Vũ Tường một bên.
Lão K nói chuyện một lúc, bỗng nhớ ra có thứ gì đó để quên trên tầng, liền gọi: “Mèo con, xuống đây đi!”
Một cô gái e dè bước ra từ tầng trên, mái tóc dài chấm vai. Màu đêm không thể nuốt trọn làn da trắng nõn của cô, ngược lại còn làm nổi bật hơn vẻ mềm mại ấy. Lâm Vũ Tường há hốc mắt, mặt gần như không đủ chỗ chứa cặp mắt tròn xoe, miệng lẩm bẩm: “Susan!”
Cô gái vừa xuống cầu thang vừa chỉnh trang quần áo. Lão K đưa tay ra đón. Lâm Vũ Tường bước tới một bước, mới phát hiện nhận nhầm người. Cô gái này nhan sắc kém Susan một chút, tóc cũng thua Susan một bậc, nhưng nhìn chung vẫn rạng rỡ siêu lòng người.
Lão K cũng giống hệt Lương Tử Quân, có thể thấy anh ta không phải là kẻ không ham mê nữ sắc, chỉ đơn giản là tình trường chưa khai mở . Nhưng một khi mở ra thì thật đáng kinh ngạc, đêm khuya chạy đến nhà ma để “người và ma tình chưa dứt”.
Cô gái thẹn thùng cúi đầu chơi đùa với mái tóc.
Lão K nói: “Cậu đến chỗ này làm gì vậy?”
Lương Tử Quân nói: “Chơi thôi, cậu…” Lương Tử Quân chỉ vào cô gái mà cười.
“À, chẳng qua là cùng nhau Play Play thôi mà!” Lão K đáp.
Lương Tử Quân chợt hiểu ra, khen Lão K thật có phong thái.
Lão K nói: “Còn đứng ngẩn ra đó làm gì? Đi ăn một bữa đi!”
“Đi đâu?” Lương Tử Quân hỏi.
“Chẳng phải có chỗ gọi là ‘Đêm Không Ngủ’…” Lão K vẫn nhớ rõ chỗ ở quê nhà.
“Ồ! Đúng rồi! ‘Quán ăn nhanh Đêm Không Ngủ’!” Lương Tử Quân vui mừng nói, rồi mời Lâm Vũ Tường: “Cùng đi nhé!”
Lâm Vũ Tường định từ chối, nhưng lại bất ngờ gật đầu như bị thần quỷ điều khiển. Nguyên nhân chủ yếu là bởi bên cạnh có “con mèo” của Lão K với mái tóc dài bay bổng, vậy nên khi bên cạnh có một mỹ nữ, quyết định hầu hết đều sai lầm. Chẳng trách các vua chúa xưa nay liên tục ban chiếu mù quáng, căn bệnh thực ra nằm ở đây.
Ba người vừa đi vừa trò chuyện cười đùa, khiến quãng đường ma như rút ngắn lại nhiều. “Con mèo” của Lão K e ngại người lạ, cúi đầu đi thẳng, không hé răng nửa lời. Vũ Tường gần như muốn nhìn khuôn mặt cô, ước gì có thể nhắc cô nhìn phía trước, cẩn thận đừng đâm vào cột điện. Dù từ trước đến nay chỉ có đàn ông đi đâm cột điện, cậu không nỡ để cô gái trông thật trong sáng ấy đi tiên phong.
Đi một lúc, bốn người đến “Quán ăn nhanh Đêm Không Ngủ”. Đây là quán ăn nhanh duy nhất trong thị trấn mở cửa đến 9 giờ tối. Nhìn tên quán mà đoán nghĩa thì hình như sau 21 giờ cũng là ban ngày. Bên trong quán lác đác vài người, đều là những kẻ đói sau khi đánh bạc, vội vàng kiếm chút đồ ăn, vì vậy không gian cực kỳ yên tĩnh. Nhìn từ bên ngoài, “Đêm Không Ngủ” uể oải như sắp thiếp đi.
Bốn người bước vào cửa quán, lập tức “Đêm Không Ngủ” như bừng tỉnh, cả quán bỗng trở nên đầy sức sống.
Lão K gọi món bánh bao chiên đặc trưng làm nên danh tiếng của quán. Bốn người vì quá đói mà hối thúc chủ quán nhanh lên. Chủ quán lại thúc nhân viên nhanh hơn, còn nhân viên thì chỉ muốn thời gian trôi chậm ra một chút.
Lương Tử Quân hồi tưởng chuyện cũ, nói rằng lần đầu tiên cậu ta bị kỷ luật là vì đã đánh nhau tại quán “Hảo Thực Lai” ở Thượng Hải. Lão K an ủi cậu ta. Cô gái vẫn không nói một lời nào, may mà bên tay có chiếc đũa để nghịch, nếu không thì biểu cảm của cô khó mà kiềm chế được.
Chẳng bao lâu, món bánh bao chiên được mang lên, đúng như tên gọi, bánh bao xốp đến nỗi khi cắn vào thì bột gần như rơi ra. Bốn người không mấy để ý, cúi xuống thưởng thức. Lão K và Lương Tử Quân giống như phần lớn các học giả Trung Quốc, có nghiên cứu sâu rộng về tình yêu nhưng lại không thể áp dụng sang lĩnh vực ẩm thực. Họ không biết rằng con gái thường sợ những món bánh bao chiên hay màn thầu hấp, những món phải nuốt trọn, không thể ăn từ từ vì nước trong bánh sẽ bắn ra tung tóe. Con gái vốn tự hào với miệng nhỏ như quả cherry, nếu miệng nhỏ như quả cherry mà có thể nuốt một cái bánh bao chiên thì chắc chắn sẽ khiến các nhà vật lý tức giận. Vì về lý thuyết, chỉ có miệng như cái bánh bao mới có thể nuốt quả cherry mà thôi.
Lão K hoàn toàn không bận tâm, chỉ chăm chú ăn. Còn cô gái, dường như miệng cô đã học được cách xử lý vấn đề trong giới giáo dục Trung Quốc, đó là chỉ chạm vào bề ngoài mà không dám đụng tới phần cốt lõi. Lâm Vũ Tường lén liếc cô một cái, cô liền cúi đầu tiếp tục kiên cường nhai phần vỏ, mái tóc buông rũ trước ngực.
Trong khi ba người đang vui vẻ còn một người đau khổ, thì cửa ngoài lại bước vào ba người nữa. Lương Tử Quân dùng khuỷu tay hích lão K, lão K ngẩng đầu nhìn, lạnh lùng nói: “Đừng để ý họ, tiếp tục ăn đi.”
Mặc dù Lâm Vũ Tường không rành về chuyện giang hồ, nhưng ba người đó nổi tiếng đến mức anh không thể không nghe qua. Ba người này đã bỏ học, ngày ngày chuyên đi khiêu khích, tìm chuyện. Vài năm trước, phim Hoàng Phi Hồng rất thịnh hành, ba người xem xong cảm thấy tay chân ngứa ngáy, tự lập thành một bang riêng gọi là “Phật Sơn Phi Hồng bang”. Để xứng với cái tên này, họ làm đủ trò cướp bóc, trộm cắp, đã nhiều lần bị công an đưa về đồn. Công an ở đồn thấy võ nghệ kém xa “Phật Sơn Phi Hồng bang” nên cũng chỉ dám tạm giam vài ngày rồi thả ra.
“Phật Sơn Phi Hồng bang” nổi tiếng nhất với sở thích ăn uống, đi đâu ăn đó. Tối nay, họ vừa xem xong một video và định ăn no rồi mới gây chuyện. Trong ba người, kẻ đứng đầu được gọi là Phi ca, vừa vào quán đã la lối đòi thử món bánh bao chiên.
Chủ quán biết bọn họ thích ăn, vội vàng ra lệnh cho nhân viên chuẩn bị, sợ nếu để lâu thì “Phật Sơn Phi Hồng bang” đói quá sẽ không màng gì, ăn luôn cả bàn. Nhân viên nhanh chóng mang món bánh bao chiên lên.
Lâm Vũ Tường liếc mắt nhìn, thì thầm nói: “Bọn họ lên đồ thật là nhanh, đúng là…” Lương Tử Quân liếc cậu ta một cái ra hiệu.
Bàn bên cạnh, Phi ca vỗ đũa, giận dữ nói: “Mẹ kiếp, mày nói cái gì! Không sợ chết à!”
Lâm Vũ Tường dùng chín chữ để đổi lấy mười chữ, sợ đến mức không dám mở miệng.
Trong “Phật Sơn Phi Hồng bang”, một người đeo kính râm nhắc Phi ca nhìn sang cô gái bên bàn cạnh.
Phi ca vừa nhìn một cái, linh hồn đã như bay lên. Một lúc lấy lại chút bình tĩnh, liếc thêm vài lần, hắn cười hớn hở: “Tốt! Con ngựa tốt! Mày thấy tao thế nào?”
Người đeo kính râm đáp: “Đẹp trai! Đúng là mỹ nam!”
“Đẹp đến mức nào?”
“Chắc chắn tán được rồi!” Người đeo kính râm hơi thiệt thòi vì không học hành tử tế, nếu biết khen thêm một câu “Phi Phủ” (ND: chữ “Phủ” thêm sau tên mang hàm ý danh dự và kính trọng), hiệu quả nịnh hót chắc chắn còn tốt hơn.
Lâm Vũ Tường đang thực hiện kế hoạch “Vũ Tường Phủ” của mình, âm thầm chỉnh lại mái tóc, muốn để lại một hình ảnh rực rỡ trước mặt cô ấy.
Bỗng nhiên một cục giấy bay ngang qua trước mắt Vũ Tường, đập vào vai cô gái ấy. Cô sững lại, nhìn theo hướng đó, thấy ba người đang vẫy tay với mình, liền vội cúi đầu, vén tóc.
Lương Tử Quân nhận ra tình hình, nhưng im lặng không nói gì. Lão K thì còn đang lưu luyến mấy cái bánh bao chiên, phản ứng chậm chạp với mọi thay đổi xung quanh.
Phi ca thấy ném giấy không đã, bèn nâng cấp vũ khí, nhặt một cái bánh bao chiên ném qua. Cái bánh như được gắn dẫn đường bằng hồng ngoại, lao thẳng vào má cô gái. Cô tránh không kịp, kêu khẽ một tiếng “A!”, thuận thế ngả vào lòng Lão K.
“Làm sao vậy, mèo con?”
“Hắn ném em!”
“Đồ chết tiệt, muốn chết hả!” Lão K quăng đũa xuống.
Lâm Vũ Tường phản đối đánh nhau, nói: “Thôi đi, thôi đi.”
Bàn bên kia không chịu bỏ qua, lại ném sang một cái bánh bao chiên nữa. Gần đây lão K mải mê ong bướm, võ nghệ mai một, đưa tay chụp hụt, chiếc bánh bao chiên bắn trúng ngay áo khoác của anh ta. Lương Tử Quân cũng đập bàn đứng bật dậy.
Ông chủ quán thấy tình hình căng thẳng, lập tức cùng Lâm Vũ Tường hóa thân thành bồ câu hòa bình, vội vàng chạy tới nói: “Thôi nào, hiểu lầm nhỏ thôi, mỗi người nhịn một chút, nhịn một chút!” Trong lòng ông chủ chỉ mong mỗi người lùi thêm vài bước nữa, lùi ra khỏi quán luôn cũng được, miễn sao không làm hỏng quán của ông thì hai bên có mang cả bom nhiệt hạch ra đánh nhau cũng mặc kệ.
Phi ca vỗ vai ông chủ, đòi một điếu thuốc, nhả khói chầm chậm rồi nói: “Tao gọi cái này là lấy bánh bao thịt ném chó!”
Lão K nghe mình bị ví thành chó, lửa giận bốc lên, liền “chó ném bánh bao”, ném ngược bánh bao chiên lại. Đáng tiếc là kỹ thuật ném kém, ném lệch khỏi mục tiêu một khoảng rất xa, khí thế hệt như tuyển bóng đá quốc gia lúc sút cầu môn.
Ba tên kia cười hô hố: “Thằng đầu trọc ném lệch thấy gớm!”
Lão K nghiên cứu Kim Dung rất kỹ, đọc xong thì võ lực và trí lực đều tăng vọt, lần này liền xuất ra câu thoại hay của Dương Quá: “Thằng đầu trọc mắng ai?!”
Phi ca học hành chẳng ra gì, lập tức bị hố, nhướn mày buột miệng đáp: “Mắng mày chứ ai!” Lương Tử Quân và lão K phá lên cười.
Phi ca chửi thẳng: “Cười cái con chim gì, là chửi mày đấy, mày, con chó hoang tóc dài!” Vừa nói vừa giơ nắm đấm lên, hận mình không phải Dương Tiểu Tà trong bút của Lý Lương, hễ thấy chó là giết. Chửi xong đầu óc mới kịp phản ứng, trợn mắt đá bay cái ghế, lại chửi: “Mẹ nó, cái mồm cũng biết giở trò phết đấy.”
Hai tên đàn em còn lại cũng đứng bật dậy phụ họa.
Ông chủ quán xót xa cái ghế bị đá lật nằm dưới đất, vội chạy tới dựng lại, giọng như sắp khóc: “Mọi người nhường nhau một bước đi, đừng cãi nữa, ăn có ngon miệng không!” Thấy lời mình chẳng có tác dụng, ông càng thêm nghẹn ngào. Ý thật trong lòng không sao giấu được: “Muốn gây lộn thì ra ngoài mà gây, tôi còn phải làm ăn chứ!”
Phi ca khạc một tiếng, mắng: “Làm cái con mẹ mày, cút đi!”
Lương Tử Quân mở miệng: “Tao… chết tiệt, tụi mày hống hách cái gì vậy!”
Phi ca lại nhẹ ném một cái bánh bao chiên xuống trước mặt Lâm Vũ Tường. Lâm Vũ Tường giật mình.
Cô gái đối diện níu vạt áo Lão K van nài: “Thôi bỏ đi, em xin mà!”
Lão K phẩy tay nói: “Việc đàn ông, đừng xen vào, đi ra một bên!” Rồi trong lòng tức giận nghĩ, mặc dù số người trong nhóm mình đông hơn, nhưng tiếc thay một người là phụ nữ, một người giống phụ nữ, có thể bỏ qua. Hai đấu ba, lẽ ra là có thể so tài. Không may Lão K ngày thường gây thù nhiều quá, hai học sinh phía sau từng bị hắn đánh cũng đang hăm dọa nhìn chằm chằm. Lương Tử Quân mừng vì mình chỉ có kẻ thù tình cảm, mà kẻ thù tình cảm của hắn phần lớn yếu đuối vô cùng, so với Phi ca trước mắt có thân hình đẹp cả về chiều cao, cân nặng và ba vòng thì chẳng tương xứng, nên không có hậu họa gì.
Phi ca lại ném một cái bánh bao chiên nữa, làm Lão K vốn đã giận càng giận thêm, hắn liền ném thẳng lon coca sang, tuy không trúng nhưng bắn tung tóe lên ba người. Phi ca lau mặt, giơ ghế lên định đập người. Lão K vội kéo cô gái ra phía sau mình, Lương Tử Quân đẩy nhẹ Lin Vũ Tường đang đứng ngẩn ra, bảo: “Cậu ra trước đi, đừng cản đường!”
Lâm Vũ Tường nghĩ đến đại cục, vội vàng lao ra cửa. Trước khi đi, không nhịn được liếc nhìn cô gái lần nữa, thấy cô đang xõa tóc, khuyên lão K dừng tay, không có thời gian rảnh để nhìn Lâm Vũ Tường. Cuối cùng còn nghe thấy một câu: “Chết tiệt – con nhỏ này đẹp thật, cùng đại ca chơi chơi…”
Trong nháy mắt, Lâm Vũ Tường cảm thấy xung quanh lạnh buốt, linh hồn vừa hết kinh hãi mới nhận ra mình đã đứng ngoài cửa. Quay đầu nhìn vào bên trong, thấy Lương Tử Quân cũng đang giơ một chiếc ghế, Phi ca vừa giơ tay che chắn vừa chỉ vào Lâm Vũ Tường, một tên trong băng cầm ghế lao vút tới…
Cậu ta sợ đến mức vội vàng bỏ chạy, thậm chí không thèm quan tâm đến chiếc xe đạp. Chạy một hồi lâu, phát hiện đã ra tới phố lớn, phía sau không có ai đuổi theo, liền dừng lại. Trong làn gió lạnh chỉ còn bóng cậu ta làm bạn, đèn đường màu cam vàng dưới mây đen trông càng thêm âm u.
Lâm Vũ Tường lấy lại bình tĩnh, rồi đi đi lại lại, suy nghĩ không biết có nên quay lại không. Ngẩng đầu nhìn lên bầu trời, tâm trạng u ám như trời đất vô tận. Anh quyết định dùng đồng xu để định đoạt, nhưng ném ra mặt ngửa thì hy vọng mặt sấp, ném ra mặt sấp lại hy vọng mặt ngửa, thực sự không thể quyết định được, đành lang thang dọc phố, như thể xung quanh có tiếng đánh nhau vây quanh. Vừa đi vừa cảnh giác phía sau có kẻ đuổi theo hay không.
Đi bộ hơn nửa giờ, không biết sao lại vòng đến trước cửa nhà Susan, trong khi cậu chắc chắn trong đầu chẳng hề nghĩ đến cô. Điều đó chứng tỏ nỗi nhớ không chỉ tồn tại trong đầu mà còn hiện hữu ở đôi chân, tim có hướng, chân biết đi.
Dừng bước ngước nhìn ban công. Nhà Susan ở tầng bốn, từ cửa sổ lờ mờ rọi ra ánh đèn bàn ấm áp, ánh sáng ấy mềm mại như thể có thể thực hiện những động tác thể dục khó nhằn, khiến Lâm Vũ Tường say mê.
Đứng trơ ra nửa ngày, lờ mờ thấy bóng người trên rèm di chuyển, tưởng là Susan đã phát hiện và đến mở cửa chào đón. Lâm Vũ Tường tràn đầy niềm vui, chỉ chờ Susan đứng ở cửa sổ vẫy tay nhìn mình. Lúc này, điều duy nhất còn tiếc nuối là Shakespeare chưa viết rõ Romeo đã trèo qua tường vườn nhà Capulet như thế nào.
Bóng người đứng trước cửa sổ. Gần rồi, gần rồi! Tim Lâm Vũ Tường nhảy không ngừng, âm thầm quyết định kiếp sau nhất định phải làm con tắc kè. Cậu thèm muốn hét lên:
“Thì thầm! Ánh sáng lóe lên từ cửa sổ đó là gì? Đó chính là phương Đông, Susan chính là Mặt Trời…” – “Shakespeare toàn tập”, tập 8, trang 35, Chu Sinh Hào dịch.
Bóng người tiến lại gần hơn một chút! Lâm Vũ Tường lại hận mình không có được sự kết nối với thần tiên như Romeo, không thể mượn được “đôi cánh của tình yêu”.
Đúng lúc cậu tràn đầy hy vọng, hình bóng ấy bỗng biến mất. Sự hứng khởi dồn nén liền tan biến vào khoảng không vô tận của đêm.
Sau cú sốc ấy, Lâm Vũ Tường nhận ra rằng nỗi đau khi biết mặt mà không biết lòng còn lớn hơn nhiều so với việc biết lòng mà không biết mặt.
Sau một đêm lang thang, chuyện hậu sự của Lương Tử Quân đã không còn quan trọng nữa. Lâm Vũ Tường yên tâm về nhà, thong thả hồi tưởng lại vô số việc vặt hôm nay, vô thức ngủ thiếp đi.
Ngày hôm sau, việc đầu tiên cậu làm là đi hỏi về tình hình của Lương Tử Quân. Khi gặp Lương Tử Quân, thấy anh ta vẫn nguyên vẹn không thiếu gì, Lâm Vũ Tường thở phào nhẹ nhõm. Lương Tử Quân nói anh ta đoán là Phi ca sẽ bị gãy xương. Lâm Vũ Tường vỗ tay nói: “Tốt! Kết cục của người này chính là như vậy! Đáng đời!”
Lương Tử Quân hả hê nói: “Sau đó chúng tôi còn gọi cả xe cảnh sát nữa, tôi chạy khá nhanh. Tiếc là lão K bị thương nhẹ nên phải đưa vào bệnh viện.”
“Còn… cô gái kia thì sao?”
“Cô ấy không sao, đã về rồi. Nhà cô ấy không ở đây, còn khóc nói sau này không tới nữa!”
“Không tới đây nữa…”
“Chắc là không dám đến nữa.”
“À. Vậy cô ấy tên gì?”
“Tôi làm sao biết!”
Trong mắt Lâm Vũ Tường thoáng hiện một chút thất vọng.
Buổi chiều trong tiết sinh hoạt lớp, Lâm Vũ Tường và Lương Tử Quân cùng bị gọi lên phòng hiệu trưởng. Lâm Vũ Tường mồ hôi lạnh đầm đìa, nghĩ thầm: xong đời rồi. Hiệu trưởng trường trung học thị trấn oai phong hơn hẳn các hiệu trưởng trường khác, ngày thường hiếm khi xuất hiện, chỉ khi có việc lớn mới ra mặt.
Ông nghiêm nghị hỏi: “Hai người các em có biết tại sao tôi gọi các em đến không?”
“Không biết ạ.”
“Sau tám giờ tối qua các em làm gì?”
Lương Tử Quân đáp: “Học thêm ạ.”
“Nói dối! Sáng nay có người đến nói hai người các em phá cửa hàng của họ. Thế à, không học mà đi đánh nhau!”
Lâm Vũ Tường cảm thấy oan ức nói: “Không có!”
“Đã có nhân chứng. Gọi bố mẹ các em đến!”
…
Kết quả là cha Lâm Vũ Tường đã đánh cậu ta một trận, nhưng Lương Tử Quân hết lời khẳng định Lâm Vũ Tường không hề động thủ, cộng với Mã Đức Bảo mượn giải nhất toàn quốc môn văn để xin, nên Lâm Vũ Tường thoát nạn. Cha của Lâm Vũ Tường phải bồi thường tiền. Lương Tử Quân thật sự đánh người gây thương tích, bị kỷ luật hành chính một lần. Cha của Lâm Vũ Tường muốn dùng tiền để hóa giải tai họa, dẫn đến bất đồng với hiệu trưởng.
Đã gần sang tháng Giêng, Lương Tử Quân chuyển trường sang một trường tư thục ở Phố Đông, Lâm Vũ Tường chưa kịp nói lời từ biệt. Mã Đức Bảo dẫn dắt câu lạc bộ văn học đoạt giải Câu lạc bộ văn học xuất sắc toàn quốc, không phải “đoạt được”, đúng hơn là “mua được”.
Tháng sau, khủng hoảng tài chính châu Á ập đến. Một giáo viên Ngữ văn thất nghiệp trở về trường cũ. Mã Đức Bảo vì có phương pháp giảng dạy tốt, được giới thiệu làm giáo viên Ngữ văn tại trường trung học huyện. Trước khi đi đã chia tay Lâm Vũ Tường đầy lưu luyến.
Lâm Vũ Tường và thành tích học tập của cậu ấy, và Susan, mọi thứ vẫn như cũ.